Ngô Nhân Dụng - Dân tộc thắng chủ nghĩa
Sử gia Benedict Anderson mở đầu cuốn sách bàn về các “phong trào dân tộc,” xuất bản năm 1983, ông nhắc ngay đến các cuộc chiến tranh ở bán đảo Ðông Dương, giữa Việt Nam với Campuchia từ cuối năm 1978, và Trung Quốc với Việt Nam đầu 1979.
Anderson thấy
một hiện tượng đáng chú ý: Các chính quyền cộng sản nào phát động các cuộc chiến
này không ai nhắc nhở gì đến “Chủ nghĩa Mác” để biện minh cho những cái chết của
bao nhiêu người dân và binh sĩ mà họ gây ra. Nó khác hẳn “mô típ” quen thuộc của
các chính quyền cộng sản trước đó.
Anderson nhắc
lại các vụ quân Nga can thiệp vào nước Ðức (1953), Hungary (1956), Tiệp Khắc
(1968), Afghanistan (1980) và các cuộc đụng độ biên giới giữa Nga Xô và Trung Cộng
năm 1969. Trong các cuộc dụng binh đó họ vẫn còn nêu lên các khẩu hiệu “bảo vệ
chủ nghĩa xã hội” hoặc “chống đế quốc xã hội chủ nghĩa.” Những chữ “xã hội chủ
nghĩa” hồi đó còn linh thiêng lắm. Các cuộc chiến ở Ðông Dương năm 1978, 1979
là chiến tranh giữa các chế độ cùng theo “chủ nghĩa xã hội” như nhau! Cái khác
nhau là dân tộc, họ xúi người Việt, người Campuchia, người Trung Quốc đánh giết
nhau. Dân tộc là một động lực thúc đẩy lịch sử, mà trong hàng thế kỷ trước đó,
các người quá tin vào chủ thuyết của Karl Marx đã tự bịt mắt họ nên không chịu
nhìn thấy. Rõ ràng, dân tộc là một hiện tượng xã hội rất cần nghiên cứu, đáng
được phân tích kỹ lưỡng.
Benedict
Anderson đã nhìn ra việc lợi dụng tinh thần dân tộc, tự ái dân tộc ngay trong
quá trình phát triển phong trào cộng sản quốc tế. Ở những nước như Việt Nam,
Trung Quốc, Campuchia, các đảng cộng sản chiếm được chính quyền không phải vì họ
lôi cuốn được người dân tin vào chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa đó quá xa vời.
Trong thực tế, các đảng cộng sản đã dựa vào làn sóng giải phóng dân tộc để kêu
gọi người ta hy sinh. Ý thức dân tộc là một động cơ vừa mạnh vừa có nguồn gốc
sâu xa hơn mọi thứ chủ nghĩa. Không cần đợi tới năm 1989, khi các chế độ cộng sản
sụp đổ hàng loạt như những quân bài domino người ta mới thấy như vậy. Sau năm
đó thì cái gọi là chủ nghĩa cộng sản đã “hết thiêng” rồi, ngay các đảng viên cộng
sản cũng mất hết niềm tin. Các đảng cộng sản còn sống sót cũng cố ý lờ đi không
nói đến chủ nghĩa nữa.
Tại nước ta
ngay bây giờ, chính quyền cộng sản đang nhân danh cái gì khi họ đàn áp những
người đòi dân chủ tự do, khi họ bỏ tù những Ðiếu Cày, Tạ Phong Tần, Cù Huy Hà
Vũ? Tội danh họ thường gán cho các nhà tranh đấu dân chủ là tội “chống nhà nước”
hay “âm mưu lật đổ nhà nước;” trong hình luật. Ðảng Cộng sản không hề nói đến
chủ nghĩa xã hội, là thứ mà họ vẫn nhân danh để biện minh cho việc chiếm độc
quyền cai trị 90 triệu người dân Việt. Trong khi đó thì những người Việt Nam
yêu nước đang vận động khắp nơi trên thế giới để bảo vệ mạng sống và con đường
tranh đấu của Ðiếu Cày, nhân danh quyền sống của dân tộc Việt Nam. Các nhà trí
thức, các bloggers trong nước, các đoàn thể ở hải ngoại khi lên tiếng yêu cầu cả
thế giới can thiệp bảo vệ Ðiếu Cày đều nhân danh dân tộc, nhân danh quyền bảo vệ
tổ quốc Việt Nam trước các âm mưu bành trướng của Cộng sản Trung Hoa. Ðiếu Cày,
Tạ Phong Tần, Nguyễn Phương Uyên, Ðỗ Thị Minh Hạnh, vân vân, được đồng bào yêu
mến vì lòng yêu nước của họ chứ không phải vì một chủ nghĩa trừu tượng nào cả.
Nói như Benedict Anderson, chúng ta đang sống trong một “Cộng đồng Tưởng tượng,”
là dân tộc Việt Nam, cho nên cùng nhau tranh đấu.
Cuốn sách của
Benedict Anderson đặt tựa đề là “Những Cộng đồng Tưởng tượng: Suy nghĩ về nguồn
gốc và sự bành trướng của phong trào dân tộc” (Imagined communities: reflections
on the origin and spread of nationalism, in lần đầu năm 1983).
Anderson mô
tả một dân tộc (nation) là một “Cộng đồng Tưởng tượng,” vì người ta không cần
phải gặp nhau, không cần nhìn thấy nhau, nhưng trong đầu vẫn nghĩ tất cả mọi
người cùng thuộc vào một “cộng đồng” có thật. Một đặc tính của cộng đồng này là
nó có giới hạn, dù biên giới của nó khá co giãn (elastic). Người Pakistan tự nhận
họ thuộc một dân tộc dù họ nói nhiều ngôn ngữ khác nhau. Người Bangladesh thấy
họ là một dân tộc, cần tách ra khỏi nước Pakistan. Ðó là những “Cộng đồng Tưởng
tượng,” chỉ vì người ta muốn như thế. Người ta biết họ thuộc vào một dân tộc,
và mặc nhiên coi những người khác cũng nghĩ như mình; bên ngoài biên giới đó là
“người khác, dân khác.” Ðặc tính thứ hai mà Anderson nhấn mạnh là chủ quyền.
Khi thấy mình là một dân tộc thì người ta cũng nghĩ họ có quyền quyết định trên
cuộc sống chung của họ với nhau. Quyền này vượt trên các chế độ chính trị, các
vương quốc hay đế quốc đang cai trị họ. Ở Châu Âu vào thế kỷ 19, nhiều nhóm dân
sống rải rác trong các đế quốc hay vương quốc nhưng cùng chung một ngôn ngữ,
chia sẻ những tập tục văn hóa với nhau. Ðến lúc họ ý thức được mối liên hệ này
một cách nồng nhiệt, và bày tỏ ý nguyện được xác định ý thức dân tộc và đòi quyền
sống như những dân tộc, phong trào này tiếp tục thay đổi bản đồ châu Âu trong
hai thế kỷ.
Các đảng Cộng
sản thành công ở nhiều nước nhờ đã đội lốt phong trào dân tộc trong các cuộc
cách mạng gọi là giải phóng. Người dân Việt (hay dân Trung Hoa, dân Campuchia)
nghe nói “giải phóng” thì nghĩ đến việc thoát khỏi vòng đô hộ và chính sách bóc
lột của các đế quốc thực dân. Còn theo đúng chủ nghĩa cộng sản thì nói “giải
phóng” có nghĩa là giai cấp công nhân vùng lên lật đổ giai cấp “tư bản bóc lột.”
Nhưng ngay từ đầu, các đảng cộng sản cũng mạo danh cả chủ nghĩa Mác để lòe bịp
người lao động. Vì nếu đúng theo chủ nghĩa của Karl Marx, thì không thể nào có
cách mạng vô sản ở các nước như Trung Hoa, Việt Nam, và Campuchia. Marx xác định
rằng cách mạng vô sản chỉ bắt đầu ở các xã hội với một nền kinh tế tư bản đã
phát triển hết tiềm năng của nó, chính nó tạo ra giai cấp vô sản sống cực khổ
trong các thành thị, những người lao động sẽ “đóng vai trò lịch sử” thay đổi trật
tự, giúp cả xã hội cùng tiến lên. Bây giờ thì ai cũng biết các lời tiên đoán của
ông Karl Marx sai hết. Lịch sử nhân loại đã quẹo qua một ngả rẽ khác hẳn. Nhưng
vào những năm 1930 nếu người ta tin vào kịch bản do ông Marx vẽ ra thì những nước
Trung Hoa, Việt Nam, và Campuchia cũng chưa hội đủ các điều kiện để có “cách mạng
vô sản” như ông ta tiên đoán.
Một cuộc kiểm
tra dân số ở Việt Nam năm 1937 cho thấy rõ điều này. Nước ta chưa thật sự công
nghiệp hóa, 95% dân chúng sống ở nông thôn. Những người cộng sản lúc đó tuyên
truyền là có một giai cấp tư bản bóc lột lao động ở nước ta. Nhưng trong thực tế
cái gọi là giai cấp tư bản nội địa đó chỉ có khoảng 10,500 gia đình, gồm những
địa chủ không tự mình làm ruộng mà chỉ thuê người khác làm, một số nhỏ các nhà
kinh doanh, và các công chức làm cho chính quyền thuộc địa. Con số đó chỉ chiếm
nửa phần trăm (0.5%) dân số cả nước. Có thể nói, nước ta chưa có một giai cấp
tư sản.
Nguồn: Diễn Đàn Thế Kỷ