Lửa Dậy Trời Xuân-Minh Quân
Lửa Dậy Trời Xuân-Minh Quân
Chương 01
Ai bảo cứ hễ giàu là sướng và nghèo thì khổ ? Hòa không tin vậy.
Bằng cớ là nó thấy thằng Tâm, bạn thân của nó, con nhà giàu thật sự, giàu ghê
gớm, giàu nhất trong số những nhà giàu mà nó được biết, cứ luôn miệng kêu khổ
không ngừng.
Ngay cả Hòa, nó cũng tin là bạn mình khổ thật chứ không phải giả vờ. Kể ra, thoạt nghe qua người ta khó mà tin được, thì vẫn… xưa nay ai người ta cũng nghe, cũng nói tiếngnghèo đi kèm bên tiếng khổ : nghèo khổ ! Chứ có ai mà lại đi nói ngược đời giàu khổ bao giờ ?
Ngay cả Hòa, nó cũng tin là bạn mình khổ thật chứ không phải giả vờ. Kể ra, thoạt nghe qua người ta khó mà tin được, thì vẫn… xưa nay ai người ta cũng nghe, cũng nói tiếngnghèo đi kèm bên tiếng khổ : nghèo khổ ! Chứ có ai mà lại đi nói ngược đời giàu khổ bao giờ ?
Nhưng mà sự thật vẫn là sự thật, không sai suyển đi đâu được.
Thằng Tâm khổ lắm, có thể nói nó là đứa trẻ khổ nhất mà Hòa được biết, cũng như
chuyện Hòa biết nhà Tâm giàu có nhất vậy.
Trước hết, Hòa biết bạn nó rất khổ về chuyện ăn mặc – nói vậy cho
xuôi tai chớ thật ra không có chuyện ăn ở đây, mà là chuyện mặc thôi. Vâng !
Tâm vẫn điên đầu về chuyện này và thường thổ lộ tâm tình với bạn là nó khổ sở
ra sao. Nó khổ điên vì có nhiều quần áo quá ; nào quần áo mặc đi học, nào quần
áo mặc đi chơi, nào quần áo mặc lúc đi lễ nhà thờ, nào quần áo mặc vào dịp nhà
có chuyện trọng thể (chẳng hạn như tiệc tùng, tiếp tân mà nhà nó thì tiệc tùng,
tiếp tân không ngớt) hay đám cưới các anh chị nó. Tâm còn kể rằng khi ăn, nó
phải mặc một thứ áo khoác riêng, nhưng điều này thì quá sức tưởng tượng của
Hòa, nên Hòa không tin. Cho đến khi Tâm tức đến chảy nước mắt ra vì bị bạn cho
là nói dóc, giơ tay thề, Hòa mới hết nghi ngờ.
Tâm vẫn nhìn các bạn cùng trường và cùng lớp của nó bằng đôi mắt thèm thuồng ao ước. Bởi quần áo nó quá sang, nó phải giữ gìn cẩn thận, giờ ra chơi cũng như giờ học, không được tự do chạy nhảy, leo trèo như các bạn. Tâm đứng đâu đứng yên, ngồi đâu ngồi thẳng chỉ những nơm nớp sợ nhầu nát bờ ly quần, nếp áo thì về nhà bị la rầy về tội ăn mặc không đúng “biên tơ nuy”. Có trời mới biết được biên tơ nuy là cái quái quỉ gì, riêng đối với Tâm thì ba tiếng đó rất là đáng ghét, đáng sợ, đầy đe doạ.
Mặc dù vậy, một lần nọ, Tâm ta quên phắt cái bổn phận phải “biên tơ nuy” của mình đi, lăm le nhập bọn với tụi thằng Hòa. Tức thì thằng bạn thân nhất của nó (thằng Hòa) lôi nó về với bổn phận liền, không do dự :
Tâm vẫn nhìn các bạn cùng trường và cùng lớp của nó bằng đôi mắt thèm thuồng ao ước. Bởi quần áo nó quá sang, nó phải giữ gìn cẩn thận, giờ ra chơi cũng như giờ học, không được tự do chạy nhảy, leo trèo như các bạn. Tâm đứng đâu đứng yên, ngồi đâu ngồi thẳng chỉ những nơm nớp sợ nhầu nát bờ ly quần, nếp áo thì về nhà bị la rầy về tội ăn mặc không đúng “biên tơ nuy”. Có trời mới biết được biên tơ nuy là cái quái quỉ gì, riêng đối với Tâm thì ba tiếng đó rất là đáng ghét, đáng sợ, đầy đe doạ.
Mặc dù vậy, một lần nọ, Tâm ta quên phắt cái bổn phận phải “biên tơ nuy” của mình đi, lăm le nhập bọn với tụi thằng Hòa. Tức thì thằng bạn thân nhất của nó (thằng Hòa) lôi nó về với bổn phận liền, không do dự :
- Thôi ! Đứng coi tụi tao chơi cũng vui rồi, đừng bày đặt…
Hòa coi vậy chớ khá tế nhị, nó không bao giờ muốn nói trắng ra sợ làm bạn buồn lòng, song đâu phải tất cả bạn bè đều tốt bụng như Hòa, cho nên trong đám đông có tiếng cười khung khúc và tiếng nói cất cao :
Hòa coi vậy chớ khá tế nhị, nó không bao giờ muốn nói trắng ra sợ làm bạn buồn lòng, song đâu phải tất cả bạn bè đều tốt bụng như Hòa, cho nên trong đám đông có tiếng cười khung khúc và tiếng nói cất cao :
- Ông đừng nhập vô đây chi, lỡ rách áo, trầy da, tụi nghèo thêm…
mệt !
Hoà gắt thằng vừa cất tiếng trêu Tâm :
Hoà gắt thằng vừa cất tiếng trêu Tâm :
- Thôi đi Sử, chọc tức nó làm chi ? Bộ nó không phải là bạn của
mình sao chớ ?
- Ha ! Binh hả ? Binh nhà giàu hả ? Nịnh hả ? Chầu rìa hả ?
Hoà nghe mặt mình bừng nóng, mắt mình bừng nóng, nó sừng sộ :
- Nói ai nịnh ? Nói ai chầu rìa ? Đồ chó ! Muốn ăn thoi hở ?
- Được ! Nhào vô chơi ! Coi đứa nào ăn…
Thế là trong một nháy mắt, một pha đấm đá gay cấn xảy ra, trên sức
tưởng tượng của Tâm. Thằng bé đa cảm bưng mặt khóc rấm rức. Nó bị cái mà các
nhà trí thức (giả và thật) kêu là “mặc cảm tội lỗi” giày vò hành hạ. Nó biết
chính nó là nguyên nhân cuộc bạo động. Sân trường trống rỗng mấy góc kia, đám
đông tụ tập lại một góc, góc mà Hòa và Sử đang quần nhau. Tiếng cổ võ reo hò,
tiếng vỗ tay náo động cả sân trường, bụi tung mù mịt, át cả tiếng khóc của Tâm.
Tâm không ngờ rằng câu chuyện đó lại có lợi cho nó : tuy Hòa mất
đi vài giọt máu mũi và rách hết một ống tay áo, song kể từ đấy tình bạn giữa
hai đứa thắm thiết hơn lên. Đặc biệt hơn nữa, từ đó trở đi, tuyệt nhiên không
một đứa nào dám nho nhoe trêu chọc Tâm, nghĩa là trêu câu nặng nặng, còn những
lời châm chích nhẹ thì cứ tiếp tục như thường…
***
Một hôm
cậu học trò con nhà giàu, cậu học trò vẫn khổ tâm mỗi khi vô ý vương một chút
mực ở ống quần, lai áo, coi như phạm một trọng tội đó, thỏ thẻ hỏi bạn :
- Tối ngủ Hòa có thay áo không ?
- Tối ngủ Hòa có thay áo không ?
Thay áo
quần trước khi ngủ ? Chà ! Bộ nó tưởng mình là con ông Hoàng chắc ? Hòa nghĩ
thầm chứ chưa trả lời, Tâm tưởng Hòa chưa nghe rõ, hỏi lại :
- Tối ngủ
Hòa có thay áo quần không ?
Bởi theo
ý Tâm đó là một việc bắt buộc, mà bắt buộc thì là không vui, là phải làm, mà hễ
có tiếng “phải” ở đâu thì cái khổ theo liền ở đó, không sai. Hòa cười khẩy, đáp
bằng giọng tự tin :
- Không !
Không thay, thay làm chi, mệt !
Tâm ngạc
nhiên :
- Thiệt
không ? Như vậy mày bận luôn áo quần này ngủ hả ? (gục gặc đầu ra dáng người
hiểu biết) chà, dơ chết!
Hòa làm
bộ ta đây cũng là một con người vệ sinh :
- Trời ơi
! Mày khi tao quá ! Ai lại bận áo quần dơ mà ngủ bao giờ ? Đi học cả ngày bụi
bặm, lấm lem (cu cậu đỏ mặt lên ấp úng) ai thèm bận…
Tâm sốt
ruột, hỏi dồn :
- Ủa, mày
nói không thay, không bận áo quần này, vậy thì…
Hoà lấy
lại bình tĩnh, đáp gọn :
- Trời
nóng, tao chỉ bận quần đùi mà ngủ thôi !
Nhìn vào
mặt bạn, Hòa ngờ ngợ hỏi lại :
- Mày lạ
lắm hở ? Bộ mày chưa khi nào bận quần đùi mà ngủ hết chắc ?
- Trời ơi
! Sướng quá ! Tao muốn bận quần đùi mà ngủ lắm chớ mà không được đâu, mẹ tao
la.
Lại một
lần Hòa đến nhà bạn chơi. Tâm lôi Hòa lên phòng nó, điệu bộ bí mật y như là có
điều gì quan trọng lắm (nhân cha mẹ Tâm đi vắng chớ có hai ông bà ở nhà thì cho
kẹo Hòa cũng không vô). Miệng Tâm liến thoắng :
- Mau !
Có cái này hay lắm. Mau lên coi, Hòa !
Hai đứa
vừa thở vừa kéo nhau lên lầu. Tâm tiếp :
- Hòa,
nói thiệt đi ! Bộ mày chưa bao giờ bận đồ ngủ hết, phải không ?
- Chưa,
rồi sao không ? Không tin hả ?
Hòa trả
lời bạn, hơi tức vì Tâm tỏ vẻ nghi ngờ lời mình. Tâm tươi tỉnh nói :
- Vậy thì
tao đưa mầy một bộ, bận coi chơi, hay lắm. Bận cho biết.
Đoạn
nhanh nhẹn mở tủ, du bạn lại trước mặt kính, lôi ra bộ quần áo ngủ bằng hàng
trắng có sọc xanh, miệng lia lịa :
- Bận vô
coi chơi, đi ! Nếu mày ưng…
Trời đất
ơi ! Quần áo ngủ ! Từ thuở cha sinh mẹ đẻ cho đến nay Hòa nào
có biết hình thù bộ áo ngủ ra làm sao đâu ? Nhà nghèo làm gì có chuyện may thứ
áo quần chỉ dành cho mỗi việc : bận trong lúc đi ngủ? Tuy vậy, Hòa cũng làm
theo lời bạn. Chỗ bạn bè con trai với nhau, không xấu hổ gì, Hòa ta cứ tự tiện
tuột phăng ra, vất bộ áo quần của mình lên ghế bên bàn học của Tâm, mặc bộ đồ
ngủ vào. Tâm đứng yên, lặng lẽ nhìn bạn. Xong xuôi rồi, Hòa nhìn vào gương thấy
mình kỳ cục làm sao : y tựa trái dưa gang, một trái dưa gang biết di động !
Lúng ta lúng túng, Hòa đỏ mặt cởi ra trong lúc bạn thì xuýt xoa khen :
- Trời ơi
! Hòa bận coi… hay lắm, được lắm !
Hòa đâm
cáu, gạt :
- Hay con
khỉ ! Y như trái dưa gang mà kêu “hay” nỗi gì ? Dóc…
- Không
phải dóc đâu, tao nói thiệt đó. Mày ưng không ?
- Hỏi chi
vậy ?
Mày ưng thì lấy đi, lấy về bận chơi, tao có
nhiều, không sao. (Tâm chợt nhớ đến chuyện bạn vì ra tay hào hiệp bênh mình mà
bị chảy máu mũi và rách áo nên giọng nồng nhiệt hơn) lấy một bộ bận đi, Hòa !
- Thôi,
thôi… -- Hòa dẫy nẩy như đỉa phải vôi – Thôi ! Không bận đâu.
Tâm thật thà tiếp :
Tâm thật thà tiếp :
- Mày sợ
ba má tao biết hả ? Không sao đâu, tao có nhiều lắm, ba má không…
Tuy cảm động trước lòng tốt của bạn, song chỉ cái lúng túng vướng víu ban nãy cũng đủ làm Hòa mất cảm tình với bộ áo quần rồi. Huống chi nghĩ đến chuyện tốn xà phòng Hòa lại ngán hơn. Đó là chưa kể mình phải tự tay giặt lấy khi nào mẹ hay chị vắng nhà, bận việc. Thôi, đánh cái quần đùi giản dị, tiện lợi bao nhiêu ?
Ừ, phải chi Tâm cho bạn cái quần đùi còn quí hơn, được việc hơn. Nhưng mà Hòa không thể nói toạc ra như vậy, kỳ quá. Mình cũng biết giữ thể diện của mình chớ ! Còn Tâm, không bao giờ có ý nghĩ cho bạn cái quần đùi, như vậy là khinh bạn quá. Nghĩ coi, ai lại nói :
Tuy cảm động trước lòng tốt của bạn, song chỉ cái lúng túng vướng víu ban nãy cũng đủ làm Hòa mất cảm tình với bộ áo quần rồi. Huống chi nghĩ đến chuyện tốn xà phòng Hòa lại ngán hơn. Đó là chưa kể mình phải tự tay giặt lấy khi nào mẹ hay chị vắng nhà, bận việc. Thôi, đánh cái quần đùi giản dị, tiện lợi bao nhiêu ?
Ừ, phải chi Tâm cho bạn cái quần đùi còn quí hơn, được việc hơn. Nhưng mà Hòa không thể nói toạc ra như vậy, kỳ quá. Mình cũng biết giữ thể diện của mình chớ ! Còn Tâm, không bao giờ có ý nghĩ cho bạn cái quần đùi, như vậy là khinh bạn quá. Nghĩ coi, ai lại nói :
- Hòa,
tao cho mày cái quần đùi, nghe ? Tao có nhiều…
Bộ bạn
mình nghèo tới nỗi không sắm được cái quần đùi sao ? Còn tặng nhau áo quần ngủ
là chuyện khác, không ngại gì, không thương tổn gì đến tình bạn hết.
Thấy Hòa từ chối, Tâm hơi phật ý. Tuy nhiên, vốn tính hiền lành Tâm không muốn làm mất lòng bạn nên chỉ buồn thầm thôi, không nói ra.
Thấy Hòa từ chối, Tâm hơi phật ý. Tuy nhiên, vốn tính hiền lành Tâm không muốn làm mất lòng bạn nên chỉ buồn thầm thôi, không nói ra.
Nghe Hòa
khen mình có nhiều quần áo đẹp, Tâm nhăn nhó :
- Có
nhiều thêm khổ, sướng ích chi đâu ?
là Tâm
nói thật. Bấy giờ Tâm mới trình bày cặn kẽ nỗi khổ của mình : phải giữ gìn quần
áo ra sao ? Đi học về phải thay ra sao ? Tối ngủ thay ra sao ? Mùa nắng mặc thứ
gì ? Mùa lạnh mặc thứ gì ? Lạnh vừa mặc áo lót thứ gì ? Lạnh nhiều mặc áo lót
thứ gì ? Nghe chối cả tai.
Sau cùng,
trầm ngâm một giây, Tâm thêm để bạn đừng buồn lắm về tình cảnh mình :
- Coi vậy chớ tao cũng còn đỡ, không đến nỗi khổ quá như chị Bạch Tuyết, chỉ khổ gấp mấy tao, Hòa ơi !
- Coi vậy chớ tao cũng còn đỡ, không đến nỗi khổ quá như chị Bạch Tuyết, chỉ khổ gấp mấy tao, Hòa ơi !
Bạch
Tuyết ! Nghe tên đó Hòa bật cười – không nén được dù nó cố nén – vì chị Tâm,
chị có cái tên hay ho đó lại là một cô gái đen thủi, đen thui, đen cậy, đen kịt
đi kìa, trời hỡi ! (Phải, Hòa không có hân hạnh cầm đến bút lông, song Hoà thừa
biết đi rằng bạch là trắng, tuyết là trắng như tuyết, mà Bạch Tuyết gì lại đen
thui ?) Tuy nhiên Hòa cũng biết lịch sự, giữ ý tứ, không có cười to, cười mím
mím thôi. Ai ngờ trông thấy bạn cười, Tâm ta sừng sộ lên :
- Mày
cười cái gì ? Bộ ai thèm nói láo sao ? Chị Bạch Tuyết khổ thiệt đó. Đứa nào nói
láo, xe cán liền…
Hoà chồm
tới, bịt miệng bạn :
- Thôi,
đừng thề, tao tin mà. Có điều tao không hiểu chỉ khổ cái gì ? Tao thấy chỉ chơi
không…
- Vậy mới kỳ. Mày mà thấy chỉ đứng trước tủ áo của chỉ, chọn cái này, lựa cái kia, bận thử cái nọ, mặc vô rồi cởi ra, mặc cái khác, chắt lưỡi cởi ra nữa… kêu trời trách đất, nhăn nhó, hầm hừ… mày mới thông cảm, mới biết chỉ khổ hơn tao.
- Chắc gì ?
- Vậy mới kỳ. Mày mà thấy chỉ đứng trước tủ áo của chỉ, chọn cái này, lựa cái kia, bận thử cái nọ, mặc vô rồi cởi ra, mặc cái khác, chắt lưỡi cởi ra nữa… kêu trời trách đất, nhăn nhó, hầm hừ… mày mới thông cảm, mới biết chỉ khổ hơn tao.
- Chắc gì ?
- Sao
không chắc ? Tao thấy bộ dạng chỉ là tao biết vì đôi khi tao cũng giống y như
chỉ, với lại, không khổ sao chỉ kêu “Khổ quá ! Khổ quá !” hoài mỗi lần sắp mặc
áo đi đâu ?
- Chỉ còn nói gì nữa không ?
- Chỉ còn nói gì nữa không ?
Hoà làm
một cuộc phỏng vấn tốc hành. Tâm cao giọng :
- Có chớ
: chỉ nói vầy nữa : “Kỳ ghê, kỳ hết sức, cái nào khi treo coi cũng ngộ cũng hay mà
khi bận vô thì xấu đui, xấu điếc. Kỳ ghê, sao vậy trời ?” Đó, mày coi, tội chỉ
chớ, Hòa ? (Tâm nhìn bạn mong Hòa biểu đồng tình) phải không ?
- Ừ ! Tội nghiệp thiệt !
- Ừ ! Tội nghiệp thiệt !
- Mà có
cái tao cũng ghét chỉ -- Tâm tiếp – là vầy : miệng thì kêu khổ mà cứ tiếp tục
may thêm không ngừng. Tao thì trái lại, không ưng may mà cứ bị bắt phải may
thêm.
***
Kể từ ngày đó, Hòa không bao giờ còn cảm thấy buồn tủi về nỗi mình
ít áo quần. Trái lại, nó thấy mình quả là có phước. Coi thằng Tâm kia : nó có
bao giờ được cái hân hạnh mặc quần đùi đi chơi không, ngủ không ? Lúc nào cũng
bơi lội trong trái dưa gang. Lúc nào cũng vướng víu, khi thì chật chội trong bộ
âu phục, nịt niết hẳn hoi, khi thì lụng thụng trong bộ áo quần ngủ thùng thình,
lượt thượt y như ông cụ già ! Đi học, ăn bận như trẻ khác vào dịp lễ lạc hay
ngày tết không bằng. Đôi khi Hòa vẩn vơ tự hỏi : “Sao người ta bày đặt may đồ
ngủ có sọc làm chi ?” và rất muốn hỏi Tâm nhưng vốn tế nhị, sợ khơi dậy nỗi khổ
tâm của bạn, nên cố nén tò mò xuống.
Tâm hay đau ốm bất ngờ. Theo lời nó kể lại thì Hòa hiểu rằng nó không có lỗi gì trong chuyện đau ốm cả. Tại cha mẹ nó mà ra. Bằng giọng rầu rầu, nó thêm :
- Cậu tao nói vậy đó, Hòa ơi ! Cậu tao là Huynh trưởng hướng đạo, mày ơi ! Cậu tao đã năn nỉ nhiều lần để cha mẹ cho tao vô hướng đạo mà…
Tâm hay đau ốm bất ngờ. Theo lời nó kể lại thì Hòa hiểu rằng nó không có lỗi gì trong chuyện đau ốm cả. Tại cha mẹ nó mà ra. Bằng giọng rầu rầu, nó thêm :
- Cậu tao nói vậy đó, Hòa ơi ! Cậu tao là Huynh trưởng hướng đạo, mày ơi ! Cậu tao đã năn nỉ nhiều lần để cha mẹ cho tao vô hướng đạo mà…
- Đơn nào cũng bị bác hết, phải không ? – Hòa khôi hài tỉnh.
- Ủa, sao mày biết ?
- Sao lại không ? Nghe giọng nói mày là biết liền.
Tâm hậm hực :
- Tao vô hướng đạo thì có tốn kém gì đâu mà cha mẹ tao tiếc, không
cho ?
- Đó là ông bà thương mày lắm, sợ mày dang nắng nhiều, nắng nó chiếu cố tới mày thì sổ mũi, nhức đầu, hiểu chưa ?
- Đó là ông bà thương mày lắm, sợ mày dang nắng nhiều, nắng nó chiếu cố tới mày thì sổ mũi, nhức đầu, hiểu chưa ?
Tâm móc túi lấy khăn tay hỉ mũi, giọng càng tấm tức :
- Rồi không đi Hướng đạo sao tao sổ mũi hoài đây ? Nói nghe coi ?
Hả ?
Tâm chợt thấy mình vô lý, ngừng lại, bởi Hòa đâu có trách nhiệm gì
về chuyện mình sổ mũi ? Sao lại thua một đằng, gỡ một nẻo ?
Hòa rất hiểu nỗi bực mình của bạn, an ủi cầm chừng :
- Thôi đừng buồn. Biết chừng nữa ông bà nghĩ lại, sẽ cho mày đi
Hướng đạo cũng nên.
Tâm đi học bằng xe hơi nhà, có anh tài xế của sở lái, đưa nó đến trường. Cu cậu khổ sở, bứt rứt ngồi lọt thỏm trong lòng nệm xe, buồn bã giương mắt nhìn lũ bạn kéo đi lũ lượt dưới đường, phía trước hay bên hông, sát cạnh mình. Thật là : “tuy trong gang tấc mà xa nghìn trùng !” Chao ơi là xa cách, là lẻ loi !
Tâm đi học bằng xe hơi nhà, có anh tài xế của sở lái, đưa nó đến trường. Cu cậu khổ sở, bứt rứt ngồi lọt thỏm trong lòng nệm xe, buồn bã giương mắt nhìn lũ bạn kéo đi lũ lượt dưới đường, phía trước hay bên hông, sát cạnh mình. Thật là : “tuy trong gang tấc mà xa nghìn trùng !” Chao ơi là xa cách, là lẻ loi !
Thình lình, trông thấy nó (thường thì cả lũ ít để ý, mải bận trò
chuyện) nhiều đứa tinh nghịch giở mũ ra tung lên trời, hét toáng :
- Cụ đi kinh lý, bay ơi ! Cụ đi kinh lý ! Dang ra ! Dang ra…
Tâm đỏ bừng mặt vì xấu hổ, tức giận. Không phải tức giận bạn mà
tức giận cha mẹ đã không cho mình đi bộ như mọi người, từ nhà đến trường xa xôi
chi cho cam ?
Nó muốn khóc song cố ngăn giữ nước mắt lại, nuốt ực xuống trong lúc anh tài xế mở cửa xe cho nó một cách trân trọng. Anh ta lừ mắt, chỏ vào bọn học trò buông sõng ba tiếng :
Nó muốn khóc song cố ngăn giữ nước mắt lại, nuốt ực xuống trong lúc anh tài xế mở cửa xe cho nó một cách trân trọng. Anh ta lừ mắt, chỏ vào bọn học trò buông sõng ba tiếng :
- Đồ mất dạy !
Anh ngỡ là mình đã làm vừa lòng tiểu chủ, ai ngờ Tâm cau có thêm
lên :
- Anh kỳ quá, anh nói làm chi vậy ?
Thật tội nghiệp cho Tâm ! Nó bị trêu chọc, ghét bỏ, hành hạ đủ
điều chỉ vì có mỗi cái tội không do nó gây ra : con nhà giàu có ! Mà nào Tâm có
kiêu hãnh hay làm bộ làm tịch chi đâu ? Lúc nào nó cũng hiền lành, nhũn nhặn đó
chứ ? Ngay cả Hòa ban đầu cũng tỏ ra không ưa nó, về sau thấy Tâm như bị cả
“thế giới học đường” khai trừ một cách bất công, độc ác nên đâm ái ngại, kết
thân với nó.
Tâm còn cho Hòa biết rằng cậu nó vẫn chỉ trích bố mẹ nó không biết
cách nuôi con, ông nói :
- Anh chị cho uống thuốc bổ làm chi, vô ích, có tiền bày đặt. Coi
thử lũ con tôi coi, có bổ báu gì đâu, toàn ăn thứ rẻ tiền mà đứa nào cũng mạnh
như trâu…
- Thiệt không ? Mày thấy con cậu mày mạnh như trâu không ? (Hòa ngắt lời bạn)
- Có, tao thấy tụi nó mạnh lắm. Mày ưng gặp không ? Bữa nào tao dẫn tới chơi ?
Đoạn, không cần Hòa phát biểu ý kiến về đề nghị của mình, Tâm thú thật rằng vì uống quá nhiều thuốc bổ, mình không ăn cơm được. Thấy vậy cha mẹ nó đem đi bác sĩ, lại thuốc bổ, lại tiêm làm nó càng khổ thân hơn mà hình dạng thì lúc nào cũng mỏng tanh, gầy nhom như cái que được chuốt kỹ !
- Thiệt không ? Mày thấy con cậu mày mạnh như trâu không ? (Hòa ngắt lời bạn)
- Có, tao thấy tụi nó mạnh lắm. Mày ưng gặp không ? Bữa nào tao dẫn tới chơi ?
Đoạn, không cần Hòa phát biểu ý kiến về đề nghị của mình, Tâm thú thật rằng vì uống quá nhiều thuốc bổ, mình không ăn cơm được. Thấy vậy cha mẹ nó đem đi bác sĩ, lại thuốc bổ, lại tiêm làm nó càng khổ thân hơn mà hình dạng thì lúc nào cũng mỏng tanh, gầy nhom như cái que được chuốt kỹ !
Tâm làm Hòa phát hoảng lên, gần chóng mặt vì những bữa ăn nhà nó ;
nó gọi những bữa ăn đó bằng những cái tên văn vẻ như : ăn điểm tâm, ăn
tráng miệng, ăn guýt tê , ăn lót lòng, ăn… khuya…v.v. Mẹ ơi ! (Hòa kêu
thầm) nhà mình nói chung và nhà tụi bạn nói riêng–
Hòa học lõm mấy tiếng hay ho này đâu trong sách báo mà chưa có dịp nào dùng
thử, bây giờ thấy đúng chỗ quá nên dùng liền – chưa bao giờ có chuyện điểm
tâm, lót lòng, tráng miệng cả. Ăn là ăn thẳng cánh, ăn thực sự, hễ bữa
cơm dọn ra xong thì a lê hấp : cả nhà ngồi tụm lại, tay bát, tay đũa, vèo một
nhoáng là xong. Ăn thì ăn no chứ miệng làm sao mà tráng được ? Miệng người ta
chớ cái chén, cái tách sao ? Vô lý ! Lại còn chuyện lót lòng: lót cách nào, kia
chứ ? Làm sao mà lót lòng cho được ? Một khi thức ăn vào đến dạ dày là tiêu hoá
tất, lộn xà ngầu với nhau tất, lót cóc khô gì được đâu ? Đến như điểm tâm,
tiếng này nghe đường được một tị, vì nó có vẻ nho nhã, hiềm cái Hòa không hiểu
nổi. Đã bảo Hòa không có làm bạn với bút lông mà. Tuy nhiên, Hòa không thấy có
gì chướng tai về hai tiếng điểm tâm. Hòa chấp nhận. Còn ăn guýt tê và ăn… khuya
thì phải hỏi cho ra lẽ mới được. Tâm vui vẻ giải thích ngay :
- Guýt tê là ăn lúc xê xế, cỡ bốn giờ chiều đó, hiểu chưa ?
- Guýt tê là ăn lúc xê xế, cỡ bốn giờ chiều đó, hiểu chưa ?
- À, vậy thì tao hiểu rồi. Lâu lâu, vào giờ đó mẹ tao có luộc cho
tụi tao nồi khoai lang. Ăn khoai lang có kêu là guýt tê được không ?
- Sao lại không ? Muốn ăn gì thì ăn, miễn là ăn vào giờ nào thì
kêu thứ tiếng đó, còn ăn gì tuỳ ý mình chớ. Ai cấm mình ? Mày quê quá !
- Không phải, tao cứ tưởng là phải ăn ba tê, xúc xích, xăng uýt,
cá hộp mới là…
Hòa ngừng nói, hai đứa đấm thùm thụp vào lưng nhau, cười ngặt nghẽo. Bỗng, Hoà nghiêm giọng :
Hòa ngừng nói, hai đứa đấm thùm thụp vào lưng nhau, cười ngặt nghẽo. Bỗng, Hoà nghiêm giọng :
- Vậy còn “ăn… khuya ?” Người ta chớ muỗi sao mà ăn khuya ? Mày
giảng nghe coi ?
- Ăn khuya là ba má tao đi coi hát hay đi chơi về khuya đói bụng ăn cháo gà hay bồ câu hầm gì gì đó…
- Ăn khuya là ba má tao đi coi hát hay đi chơi về khuya đói bụng ăn cháo gà hay bồ câu hầm gì gì đó…
Và rồi đột nhiên Tâm nổi giận bất ngờ, giọng gắt gỏng :
- Đừng chọc giận tao, sao mày nói muỗi mới ăn khuya ? Khinh cha mẹ
tao hả ? Bộ cho
cha mẹ tao là muỗi hả ?
Hòa nhỏ nhẹ :
- Thôi, xin lỗi, xin lỗi ! Tao nói thiệt, tao không biết, tao đâu
dám…
Tâm nguôi giận, song vẫn không tin, gặng lại :
- Bộ nhà mày không khi nào ăn khuya hết, phải không ?
- Không bao giờ -- giọng chắc nịch, Hoà xác nhận -- nếu có thì tao
đã biết, không hỏi
mày làm chi. Tao cứ tưởng muỗi nó vo ve nửa đêm mới đi ăn chớ
người ta thì ngủ khò, thức làm chi mà ăn uống ?
- Mày ngu quá : muỗi đâu có ăn ? Nó hút máu người ta chớ ?
Đó là lần đầu Tâm tỏ ra thông minh hơn bạn nhưng Hòa không chịu
thua :
- Thì hút máu, mà nó không có ăn, chỉ biết hút thôi thì phải kể là ăn chứ !
Tâm tò mò :
- Thì hút máu, mà nó không có ăn, chỉ biết hút thôi thì phải kể là ăn chứ !
Tâm tò mò :
- Nhà mày mỗi ngày ăn mấy bữa ?
- Ba.
- Ngày nào cũng vậy hết hả ? Ngon không ?
- Ngày nào cũng vậy hết, ngon lắm.
- Bữa sáng ăn cái gì ?
- Cơm !
- Cơm ?
- Ừ, cơm nguội chiên.
- Sao không ăn bánh mì ? Hay là ăn phở ?
- Bày đặt, tốn tiền mà không chắc bụng. (Giọng Hòa như người lớn).
Hiểu chưa ?
- Sao mày biết không chắc bụng ?
- Mẹ tao nói, sao không biết ?
Trầm ngâm một giây, Tâm phê :
- Vậy mà mày cũng sướng hơn tao.
Hoà không cãi lại Tâm. Nó chỉ nghĩ rằng giá nhà Tâm nghèo nghèo
một chút, một chút thôi, chớ đừng nghèo quá thì chắc là Tâm sướng hơn. Hòa chỉ
khổ cái ăn cơm nguội mỗi sáng, chớ Tâm ấy à, bao nhiêu thứ khổ nữa kia, trời ạ
!
Vì vậy, Hoà hiểu cái câu tối nghĩa của bạn, không trách móc gì,
giá đứa khác nói, nó sẽ mắng ngay cho một câu:
- Đồ ngu ! Ăn cơm nguội mà kêu là sướng.
Dần dà, Hòa khám phá thêm nhiều nỗi khổ của Tâm hơn. Chẳng hạn một
lần đến nhà Hòa chơi, gặp lúc Hòa đang tắm. Tâm đứng nhìn bạn múc dội, múc dội
từ đầu xuống chân, nước chảy loang loáng khắp sân. Thấy Tâm, nó chỉ cười khì
một cái rồi vẫn tiếp tục múc dội không ngừng. Phải chi ở nhà mà mình làm vậy là
má la rồi đó, nào là ướt sân, nào là cảm gió đủ thứ. Tâm buồn bực nghĩ. Nhìn
đôi mắt đầy thèm muốn, ước ao của bạn, Hòa biết rằng không bao giờ Tâm được tắm
nước lạnh như mình, dù cho trời nóng đến bậc nào đi nữa. Cứ tưởng tượng đến nồi
nước luộc của mẹ nó trong phòng kín – dĩ nhiên là trong lúc tức, Tâm nói quá
đi, nhân cái nóng bức lên cho bạn dễ dàng thông cảm – là Hòa đủ ngán ngẩm rồi !
Tắm nước nóng ! Trời ơi ! Sao ở đời lại có những chuyện kỳ quái khác thường như
vậy không biết : củi than không để nấu cơm, kho cá, củi than ở đâu mà phí phạm,
mà dùng vô công chuyện nấu nước tắm, hở trời ?
Giữa lúc Hòa vừa cười, vừa rung rung cái đầu tóc ngắn cho nước rụng hết xuống, Tâm nghiêm trang nói :
Giữa lúc Hòa vừa cười, vừa rung rung cái đầu tóc ngắn cho nước rụng hết xuống, Tâm nghiêm trang nói :
- Cậu tao biểu ánh nắng mặt trời chiếu lên da tốt lắm đó, nó tác
dụng sinh ra vitamin D đó, ổng biểu má tao đừng bày đặt tắm xà phòng làm chi vì
xà phòng làm mất chất ấy.. Vậy mà má tao đâu có nghe ? Tắm kiểu này là đúng
cách lắm đó, Hòa ơi !
Hòa len lén thở dài một cái : cu cậu vẫn ưa được tắm xà phòng thơm. Bữa nay vì mẹ chưa mua, miếng cũ hết rồi đành phải tắm không chứ nó nào biết kiểu cách chi đâu ?
Từ bữa nghe Tâm nói, Hoà không thèm ăn cắp xà phòng thơm của em bé nữa. Chẳng biết lời cậu Tâm nói đúng hay sai, có điều được cái lợi là mẹ khỏi rầy. Mẹ Hòa rầy thì… nhức đầu lắm. Mỗi lần bánh xà phòng mòn đi một chút hay dính tóc Hòa (đi hớt tóc về Hoà lấy gội cho thơm một tị mà) là bà kêu lên :
Hòa len lén thở dài một cái : cu cậu vẫn ưa được tắm xà phòng thơm. Bữa nay vì mẹ chưa mua, miếng cũ hết rồi đành phải tắm không chứ nó nào biết kiểu cách chi đâu ?
Từ bữa nghe Tâm nói, Hoà không thèm ăn cắp xà phòng thơm của em bé nữa. Chẳng biết lời cậu Tâm nói đúng hay sai, có điều được cái lợi là mẹ khỏi rầy. Mẹ Hòa rầy thì… nhức đầu lắm. Mỗi lần bánh xà phòng mòn đi một chút hay dính tóc Hòa (đi hớt tóc về Hoà lấy gội cho thơm một tị mà) là bà kêu lên :
- Thằng Hòa thiệt ! (không biết thiệt cái gì) Con
trai sao mà ngựa quá ! Ăn cắp xà phòng của em hoài. Mẹ cấm đa, từ này còn tái
phạm, mẹ đánh đòn đa !
Hòa ức lắm, cãi lại :
Hòa ức lắm, cãi lại :
- Sao mẹ không cấm chị Mai ? Chị Mai xài hoài đó, có sao đâu ? Bộ
con không phải con mẹ sao ? Mẹ tiếc chút xà phòng với con sao ?
Mẹ Hoà cắt nghĩa :
- Chị Mai mày nó dùng xong nó cất vô hộp tử tế, nó không có làm
rớt dính đất, không có để dính tóc như mày, nó cũng không làm hao, còn mày…
Chị Mai coi bộ đắc chí lắm, chen vô :
- Mà con trai cần gì thơm ? Miễn sạch sẽ là được rồi. Nhiều
chuyện…
Hòa tức lộn ruột lên, gây với chị Mai một chặp. Tới chừng mẹ đòi
đánh cả hai, mới thôi.
Càng chơi với Tâm, Hòa càng thấy mình sung sướng, những sung sướng nó mặc nhiên tận hưởng mà không hề hay biết, phải nhờ Tâm mới nhận ra.
Mới đây nhất, Hòa biết rằng vì nhà giàu, có máy truyền hình, có máy ghi âm, có máy hát, radio hai ba cái (nhà Hòa cũng có một cái radio mà hễ ba đi làm thì đem theo) cho nên mải mê coi, nghe mấy thứ đó, học bài không thuộc, làm bài không thông, chuyên môn ăn trứng ngỗng.
Càng chơi với Tâm, Hòa càng thấy mình sung sướng, những sung sướng nó mặc nhiên tận hưởng mà không hề hay biết, phải nhờ Tâm mới nhận ra.
Mới đây nhất, Hòa biết rằng vì nhà giàu, có máy truyền hình, có máy ghi âm, có máy hát, radio hai ba cái (nhà Hòa cũng có một cái radio mà hễ ba đi làm thì đem theo) cho nên mải mê coi, nghe mấy thứ đó, học bài không thuộc, làm bài không thông, chuyên môn ăn trứng ngỗng.
- Nhiều khi không phải tại tao, chị Tuyết Mai chỉ ưa mở nhạc, mở
đài bất tử, làm mình lo ra…
Tâm phàn nàn với bạn. Hòa hỏi :
- Mày có phòng riêng mà, tao có phòng riêng thì…
- Thì phòng riêng, mà phòng chỉ gần phòng tao, chỉ mở to ong óng,
dội vô lỗ tai chớ tưởng…
- Sao không nói chỉ tắt đi đặng mà học ? Bộ chỉ không thương mày sao ?
- Sao không nói chỉ tắt đi đặng mà học ? Bộ chỉ không thương mày sao ?
- Ai dám lại gần chỉ ? Má tao kia mà tao còn không dám lại gần nữa
là…
- Kỳ không ? Tại sao vậy ?
- Tại sao ? Tại người nào cũng sợ tao tới gần làm nhầu áo chớ tại
sao. Hỏi hoài… đâu
hải được như mày…
- Như tao cái gì ?
Giọng bùi ngùi, Tâm nói :
- Như mày hễ thấy mẹ hay chị đi đâu về là a đại tới như em bé, chớ
như cái gì nữa. Làm bộ hoài, mày không biết chớ ai biết ?
Hoà nén một tiếng thở dài thương cảm, an ủi bạn :
- Thôi, đừng buồn…
Còn đang ngập ngừng không biết nên khuyên bạn cách nào cho có hiệu
quả thì Hòa ta chợt nhớ ba mình hay trêu mình cứ lẽo đẽo theo bên mẹ với chị
Mai như con gái, liền tiếp :
- Mình là con trai, đừng theo đàn bà con gái làm chi, theo ba vui
hơn.
Tức thì Tâm trừng mắt lên :
- Ba tao ? Bộ mày tưởng chuyện chơi sao chớ ? Tao đâu dám lại gần
ổng ! Tưởng ba tao
cũng như ba mày hả ? Muốn ăn đòn hả ?
- Sao kỳ vậy ? Bộ ổng không thương mày sao ? Ổng dữ lắm sao ?
Tâm trả lời xuôi xị, câu trả lời không bao giờ Hòa có thể ngờ tới
:
- Thương chớ ! Mà điều… ổng thương cái cặp da hơn .
Suốt ngày tao thấy ba tao ôm khư khư cái cặp da. Có lúc tao muốn làm cái cặp da
còn hơn. Hễ rời cái cặp da ra là tới giờ ăn, giờ đi ngủ, đi chơi hay tiếp
khách. Ba tao có giờ nào rảnh đâu mà tao dám lại gần ? Tao…
Nói xong một hơi, Tâm có vẻ hối song quá muộn, nó ngừng lại đột
ngột, nhìn lên chòm cây trước ngõ như có gì đáng chú ý trên đó lắm vậy. Hòa
cũng ái ngại quá : càng đi sâu vào tâm tình bạn, càng biết nhiều khúc mắc đáng…
buồn hơn ! Trông bộ dạng mơ màng của Tâm, giá lúc khác, Hòa đã trêu :
- Mày coi bộ thi sĩ quá !
Nhưng Hòa phanh kịp và ngay lúc ấy Tâm chợt quay lại, Hòa thấy bạn
mình chớp mắt một cái, hai giọt nước trào ra, lăn dài xuống má.
Đêm đó, lần thứ nhất Hòa quì xuống trong bóng tối, nó lặng lẽ cám
ơn Trời đã quá thương, quá rộng lượng mà ban cho mình một thiên đường nho nhỏ.
Nó có cảm tưởng mình giàu lắm, giàu hơn tất cả bạn bè, dù đôi khi nó thiếu thốn
vài thứ vì cha mẹ ít tiền không sắm nổi. Hòa hiểu rằng không sự thiếu thốn nào
đáng buồn, đáng sợ, đáng kể bằng sự thiếu thốn Tình Thương. Mà Hòa, Hòa được
bao dung, che chở, yêu mến, nó không hề thấy điều quan yếu ấy. Hòa bơi lội,
vùng vẫy trong Tình Thương như con cá trong nước vậy ! Hòa cảm thấy rằng rồi
đây mình sẽ đủ sức vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, thử thách trong đời.
Hòa xoay mình, trèo lên giường nằm duỗi thẳng, cười thầm trong
bóng tối, yên tâm chờ giấc ngủ, trong khi nhà ngoài mẹ và chị Mai đang cặm cụi
vá áo quần.
Chương 02
Cha Hòa làm tài xế xe vận tải. Ông luôn luôn khoe với mọi người
rằng trong đời cầm tay bánh của ông, ông chưa hề cán chết một con chó hay một
con gà. Ông hết sức cẩn thận. Quả vậy, ông là tài xế giỏi được chủ xe rất mực
quí mến, tin dùng. Ông cưng dưỡng cái xe không khác chi các con ông. Mẹ Hòa
thường nửa đùa nửa thật nói rằng không biết con ông với cái xe, ông quí cái nào
hơn. Cha Hòa cười xoà, vui vẻ :
- Làm sao lại thương cái xe hơn con mình được, nhưng mà chủ người ta đã tin mình, giao xe cho mình, mình phải giữ gìn cẩn thận, khỏi phụ lòng tin cẩn của người ta.
Dạo trước xe chạy đường Lục Tỉnh. Mỗi lần về đến nhà, người đầy bụi bặm, mệt phờ, song ông vẫn lục xách tay lôi quà ra cho vợ con rồi mới chịu nằm nghỉ trên cái võng trước hiên.
- Làm sao lại thương cái xe hơn con mình được, nhưng mà chủ người ta đã tin mình, giao xe cho mình, mình phải giữ gìn cẩn thận, khỏi phụ lòng tin cẩn của người ta.
Dạo trước xe chạy đường Lục Tỉnh. Mỗi lần về đến nhà, người đầy bụi bặm, mệt phờ, song ông vẫn lục xách tay lôi quà ra cho vợ con rồi mới chịu nằm nghỉ trên cái võng trước hiên.
Cha Hòa mua nhiều thứ : chuối khô, cam, ổi, ốc, cua, bánh phồng
tôm v.v… thổ sản địa phương có gì, ông mua về thứ ấy. Nằm nghỉ một lát, ông
ngồi dậy, ra săm soi cái xe cả đỗi nữa rồi mới đi tắm. Có khi ông rửa xe, có
khi chỉ lau qua trước khi đi tắm. Tắm xong, lại lên võng nằm ngâm nga mấy đoạn
thơ Lục Vân Tiên :
- Khoan khoan ngồi đó chớ ra.
Đó là phận gái đây (ta) là phận trai.
Tiểu thơ con gái nhà ai ?
Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ ?
Ông ngừng lại đột ngột, rồi tấm tắc khen :
- Đời xưa có khác, người ta giữ gìn ý tứ như vậy thiệt là hay !
Tao ưa như vậy ! Đúng là (lại ngâm) :
Trai thời trung hiếu làm đầu.
Gái thời tiết hạnh là câu trao mình…
Hòa với chị Mai cười khúc khích. Nghe tiếng con cười, người cha
chợt nhớ ra quà mình mua về chưa được các con thưởng thức, liền thôi ngâm, giục
vợ :
- Mẹ nó coi luộc ốc cho trẻ ăn đi !
Hay :
- Mẹ nó chiên bánh phồng tôm cho trẻ ăn đi !
Mẹ Hoà không ngừng tay làm việc, bà đang nấu cơm hay giặt gịa chi
đó, bà nói vọng lên :
- Ông làm như tụi con ông chết đói tới nơi rồi vậy. Đi đâu mà lật
đật ? Ăn uống phải có giờ giấc, chừng mực chớ. Gần tới bữa ăn rồi…
Cha Hòa ngắt lời vợ :
- Biết rồi, người ta có nói chưa tới giờ cơm đâu ? Mà người ta
muốn cho con người ta ăn trước mặt người ta, ăn liền cho nó mát con mắt một
chút, có sao không ?
- Chẳng có sao hết, trước mặt hay sau lưng gì rồi cũng là ăn, hối
hả cái gì ? Ông sợ tôi đem bán, không cho tụi nó ăn chắc ?
- Ai sợ ? Người ta đã nói người ta muốn nhìn con người ta ăn… đàn
bà lắm chuyện.
Thật vậy, cha Hòa có thói quen thích nhìn con ăn. Ông nói rằng nhìn các con ăn, ông ngon mắt lắm, muốn no luôn ! Hễ trong túi rủng rỉnh chút tiền là ông lén vợ chở con đi ăn tiệm liền. Lén, nhưng rồi chỉ một buổi, chậm lắm là một ngày sau, chuyện đổ bể ra. Mẹ Hòa không bằng lòng, bà nói :
Thật vậy, cha Hòa có thói quen thích nhìn con ăn. Ông nói rằng nhìn các con ăn, ông ngon mắt lắm, muốn no luôn ! Hễ trong túi rủng rỉnh chút tiền là ông lén vợ chở con đi ăn tiệm liền. Lén, nhưng rồi chỉ một buổi, chậm lắm là một ngày sau, chuyện đổ bể ra. Mẹ Hòa không bằng lòng, bà nói :
- Cha con muốn ăn gì, nói, rồi người ta mua làm cho mà ăn, ăn tiệm
tốn tiền, mắc mà không ngon.
Mai cũng theo phe mẹ, chê ăn tiệm. Chỉ Hòa với em Bé theo phe cha.
Rốt cuộc, ông chê đàn bà con gái hà tiện, ưng khổ thân, không biết
chuyện !
Không biết chuyện ? Đó là ba tiếng ông năng dùng để chỉ những ai
mà ông có ý chê. Hà tiện, xấu bụng, gian giảo, ích kỷ v.v… đều là không biết
chuyện tất !
Từ khi xe chạy ra Trung, ông hay vắng nhà hơn trước. Chừng như để
bù vào chỗ thiếu sót đó, mỗi bận về ông đem cho vợ con nhiều quà quí giá hơn :
tơ tằm tận Quảng Nam, võng gai ngoài Bình Định, mạch nha của Quảng Ngãi, mực
khô ở Nha Trang, nón bài thơ xứ Huế… và ông ở nhà nghỉ cũng lâu hơn. Nhà vui
như Tết !
***
Theo lời mẹ kể thì Hòa được biết cha mình vốn quê ở miền Trung. Ông bà nội hiếm hoi sinh có mình ông thôi. Nhà có nhiều ruộng đất, nhưng cha Hòa không ra tỉnh học, cha Hòa được học qua quít chữ quốc ngữ ở trường làng, còn chữ nho thì nhiều hơn, ông bà nội rước thầy về dạy trong nhà. Không phải ông bà nội hà tiện, mà ông bà nói rằng chữ thánh hiền tốt hơn chữ tụi tây u . Mà cần gì phải học nhiều ? Học, theo quan niệm của ông bà, là để biết đạo làm người, xử thế, chớ không phải để kiếm cơm, hay làm quan.
Nối nghiệp nhà, cha Hòa cũng làm ruộng như ông nội. Nhưng phong trào Kháng chiến với những lời kêu gọi đầu tiên vừa hùng hồn vừa thống thiết làm xúc động sâu xa tâm hồn người thanh niên con một, quê mùa và chất phác kia. Người thanh niên hiền lành ấy nhất định ra đi trong sự bằng lòng của cha và rất nhiều nước mắt của mẹ. Anh buông cày, cầm súng, tham dự nhiều trận giao tranh một cách hăng say, tin tưởng. Anh không phải là người được nhồi nhét nhiều kiến thức mới như thanh niên thành phố, anh không quan tâm đến những danh từ lớn. Lòng yêu nước trong anh được bộc lộ một cách tự nhiên, giản dị nhưng không kém nồng nhiệt khi được thức tỉnh, kêu gọi đúng lúc.
Đó là lòng yêu nước của một nông dân, bắt nguồn từ luống cày, bó mạ, từ đồng lúa, vườn rau.
Họ là những kẻ thực thà, nhút nhát, không hề tính toán đến những điều khác lạ, cao xa, người ta có thể cho rằng suốt đời họ không bao giờ rời được lũy tre, đồng ruộng, nhưng bỗng chốc, cảm thấy mình cần phải chiến đấu, thế là họ lăn mình vào chiến đấu. Giản dị thế thôi.
Thỉnh thoảng, cha Hòa ghé về thăm nhà, lại thấy cha vui và mẹ
khóc. Tuy chưa biết ai nhiều bằng mẹ anh, anh cũng kết luận rằng “đàn bà rất
nhiều nước mắt.”
Cuộc Kháng chiến kéo dài, dài hơn anh tưởng, nó kéo anh đi xa lắc,
hết còn dịp nào trở về thăm cha mẹ như buổi ban đầu.
Chính quyền thân Pháp tại địa phương được tái lập và họ kết tội
cha mẹ anh, tịch thu hết gia sản, ruộng vườn. Ông bà già quá rồi, không chịu
đựng được nỗi thảm nhục và cũng không còn sức lực để lao tác nuôi thân. Nhiều
người thương xót nhưng không dám giúp đỡ và sau cùng, song thân anh lần lượt
nằm xuống, không có mặt người con trai độc nhất theo sau linh cữu cũng như vuốt
mặt cho, hai điều mà họ hết lòng ao ước.
Hay tin dữ, cha Hòa khóc lặng. Từng đêm, từng đêm dài anh băn khoăn tự hỏi mình : “Yêu nước là một tội ư ? Mà tội lây đến cả mẹ cha ư ?” và anh không thể nào tìm được câu giải đáp. Sự việc xảy ra trên sức tưởng tượng của anh. Cha Hòa không mấy tiếc những đất ruộng nay thuộc về tay kẻ khác mà anh xót đau cho cha mẹ, xót đau dai dẳng không nguôi.
Hay tin dữ, cha Hòa khóc lặng. Từng đêm, từng đêm dài anh băn khoăn tự hỏi mình : “Yêu nước là một tội ư ? Mà tội lây đến cả mẹ cha ư ?” và anh không thể nào tìm được câu giải đáp. Sự việc xảy ra trên sức tưởng tượng của anh. Cha Hòa không mấy tiếc những đất ruộng nay thuộc về tay kẻ khác mà anh xót đau cho cha mẹ, xót đau dai dẳng không nguôi.
Nếu ngay lúc đó mà anh được trở về thì anh sẽ chĩa mũi súng vào
ngực kẻ đã làm tan nát gia đình anh rồi nhắm mắt bóp cò, rồi anh mở mắt ra nhìn
kẻ ấy quằn quại trên vũng máu mới hả lòng căm tức. Anh sẽ không biết thương hại
là gì đâu, trời ạ ! Nhưng anh không về được, phải nén lòng chờ. “Ta sẽ về ! Ta
sẽ về, tụi bây phải đền tội, rồi coi !” Anh hậm hực giơ quả đấm về phía trước, thì
thào trong bóng tối.
Song, than ôi ! Đó chỉ là lời dọa suông thôi. Kể từ sau gia biến,
anh không bao giờ còn được trở lại gia hương.
Trong một trận giao tranh, anh bị thương, bị bắt, bị giam giữ suốt
hai năm ròng. Khi được thả ra, anh lạc lõng giữa một đô thị xa lạ và xa hoa
đáng sợ : Sài Gòn ! Sài Gòn mà từ thuở bé anh chỉ nghe thoang thoáng như một
địa danh xa lạ, không ngờ rằng có ngày mình lại có mặt ở đây. Một thân đau ốm,
quanh mình không một ai là thân thuộc họ hàng.
May sao, anh gặp ông ngoại của Hòa. Trong con mắt ông thì cha Hòa
là hình ảnh của người con trai ông, người con trai đã bỏ xác vì yêu nước năm
nào.
Ông đưa anh về nhà, tận tình thuốc men chạy chữa. Mỗi lần nhìn cha Hòa, ông lại mang máng nhớ đến cánh thư cuối cùng của con trai ông, anh viết rằng : “…Cha hãy coi như không có con, như con không còn trên đời nữa, vì con không biết chắc có ngày về không. Nếu con được trở về thì vui, còn không thì em con sẽ thay con mà phụng dưỡng cha. Con cam tội bất hiếu. Trên đời này có những mối tình lớn, những nghĩa vụ lớn hơn tình nghĩa gia đình. Con không thể nào một mình hoàn tất cùng một lượt nhiều nghĩa vụ. Con mong cha hiểu mà tha tội cho…”
Ông đưa anh về nhà, tận tình thuốc men chạy chữa. Mỗi lần nhìn cha Hòa, ông lại mang máng nhớ đến cánh thư cuối cùng của con trai ông, anh viết rằng : “…Cha hãy coi như không có con, như con không còn trên đời nữa, vì con không biết chắc có ngày về không. Nếu con được trở về thì vui, còn không thì em con sẽ thay con mà phụng dưỡng cha. Con cam tội bất hiếu. Trên đời này có những mối tình lớn, những nghĩa vụ lớn hơn tình nghĩa gia đình. Con không thể nào một mình hoàn tất cùng một lượt nhiều nghĩa vụ. Con mong cha hiểu mà tha tội cho…”
Không ! Ông không thể hiểu và cũng chẳng cần tìm hiểu. Ông cảm
thấy rằng ông sắp mất con ông, đứa con trai ông chắt chiu từ khi còn tấm bé,
một mình ông còm cọm gà trống nuôi hai con – nhưng mẹ Hòa là gái rồi sẽ theo
chồng -- từ khi mẹ chúng nằm yên vào lòng đất. Ông không nuôi con cho
nước . Tại sao đến lúc con ông trưởng thành thì nước lại cướp mất con
ông ? Mặc con ông nói gì thì nói, ông không cần biết, ông chỉ biết một điều ghê
gớm : ông sắp mất nó, thế thôi !
Quả như ông nơm nớp lo sợ : đó là cánh thư chót mà người con ông
có thể gửi về. Sau đó, ông không nhận được chữ nào. Ông nhớ con quay quắt thiết
tha nhưng ông ngụy trang lòng nhớ thương sâu đậm đó, phủ nhận niềm mất mát lớn
lao đó bằng cách không bao giờ giở cánh thư cũ ra đọc lại, cũng không bao giờ
nhắc đến tên con. Nào nó có thương ông mà ông thương nó ?
“Con bạc bẽo thì thôi” ông thốt câu trên bằng giọng hờn dỗi, buồn
rầu.
Rồi tin dữ đến. Ông đón nó một cách trầm tĩnh, thản nhiên đến độ làm cho mẹ Hòa hoảng sợ, cô gái vừa lau nước mắt, vừa nghẹn ngào van xin cha tha thứ cho anh cô vì anh cô đã chết rồi.
Rồi tin dữ đến. Ông đón nó một cách trầm tĩnh, thản nhiên đến độ làm cho mẹ Hòa hoảng sợ, cô gái vừa lau nước mắt, vừa nghẹn ngào van xin cha tha thứ cho anh cô vì anh cô đã chết rồi.
Ông quay đi, giọng chìm xuống, mơ hồ như từ cõi xa xăm nào vọng
lại :
- Không, cha có giận nó đâu, cha thương nó lắm… nhưng mà…
Đôi vài gầy run run qua lần lụa mỏng, ông che mặt khóc, khóc thảm
thiết, khóc tức tưởi, tưởng như bao nhiêu khổ sở, nhớ thương, mong đợi, dồn nén
lâu nay tan hoà trong nước mắt ông.
Đó là lần đầu mà cũng là lần cuối, mẹ Hòa thấy ông nhắc đến anh
mình, tỏ lòng nhớ tiếc anh mình.
Ông thu gói tình thương đó lại, kín đáo, lặng lẽ cũng như ông lặng
lẽ kín đáo thu thập di vật của người con trai ngắn số cất vào một chỗ, một chỗ
sâu kín của lòng ông.
***
Năm ấy mẹ Hoà mười chín
tuổi. Cô từ chối những lời cầu thân của nhiều người vì cô chưa nghĩ đến tình
yêu, song có lẽ phần lớn cô do dự bởi ngại nỗi về nhà chồng thì cha già hiu
quạnh một mình. Cứ lần lữa đến đâu hay đó. Mỗi bận cha cô bàn đến chuyện chồng
con thì cô lại thưa cha hãy thong thả, rằng cô muốn được gần cha ngày nào hay
ngày ấy, rằng sớm muộn gì mà cô không phải lấy chồng ?
Cô rất cảm tình với người
thanh niên nghèo khổ xa lạ mà cha cô đưa về. Từ cảm tình đến tình yêu thật không
xa cách mấy, nhưng mỗi lúc nghĩ đến miền Trung xa tít tắp nào đó mà mình sẽ
phải đi theo, để cha già còm cọm, thui thủi lẻ loi sớm chiều trong gian nhà
vắng lặng thì lửa tình cô tắt biến. Mãi cho đến khi cô thú thật điều lo ngại
của mình, thì cha Hòa thổ lộ hết chuyện gia đình và bằng giọng xót xa, anh nói
:
- Tôi còn về đó làm chi ? Đau lòng quá lắm ! Tôi sẽ lấy quê em làm quê tôi, cha em làm cha tôi…
- Tôi còn về đó làm chi ? Đau lòng quá lắm ! Tôi sẽ lấy quê em làm quê tôi, cha em làm cha tôi…
Trầm ngâm một lát, anh tiếp
:
- Mà dù có tính đến chuyện
về cũng còn lâu lắm, chừng nào cha em…
Thế là họ thành hôn. Ông ngoại Hòa vui vẻ, vuốt râu chờ bế cháu. Ông chờ có hơi lâu, vì mẹ Hòa chậm sinh, mãi đến ba năm mới có tin mừng.
Thế là họ thành hôn. Ông ngoại Hòa vui vẻ, vuốt râu chờ bế cháu. Ông chờ có hơi lâu, vì mẹ Hòa chậm sinh, mãi đến ba năm mới có tin mừng.
Ông nhắc đi nhắc lại một
câu ông đã nói nhiều lần, mỗi lần bế cháu trên tay :
- Vậy mà ông cứ lo cháu đợi ông chết rồi mới ra đời chứ !
Hết sức mãn nguyện vì rể tốt, cháu ngoan, ông ngoại Hòa nói rằng ông sẵn sàng chờ chết. Và ông mất trong một giấc ngủ yên lành.
- Vậy mà ông cứ lo cháu đợi ông chết rồi mới ra đời chứ !
Hết sức mãn nguyện vì rể tốt, cháu ngoan, ông ngoại Hòa nói rằng ông sẵn sàng chờ chết. Và ông mất trong một giấc ngủ yên lành.
***
Khi cái
cớ duy nhất ngăn cản ý định về quê của cha Hòa không còn nữa, thì chiến tranh
lại tái diễn đến mức không ngờ. Tái diễn một cách khốc liệt, dữ dội. Riêng đối
với cha Hòa thì càng vô lý, khó hiểu. Ông tưởng rằng cởi bỏ ách thống trị, dân
tộc mình có thể sống trong sự tương thân…
Dù không
muốn, gia đình cha Hòa đã mặc nhiên trở thành thị dân và nghề tài xế dù không
phải là một nghề ông vừa ý, song ít nhất nó cũng là một nghề đủ nuôi sống gia
đình.
Như hoa hướng dương luôn luôn quay về hướng mặt trời, cha Hòa cũng vậy, tình quê dào dạt trong lòng ông. Ông thường nhắc đến ước mơ được về quê cầm lại cái cày, cán cuốc. Nhưng điều ao ước tầm thường, nhỏ nhặt đó cũng mịt mùng, xa xôi, cũng thăm thẳm khó đạt, khó với tới như cái hy vọng được thấy hoà bình vãn hồi trên mảnh đất thân yêu.
Như hoa hướng dương luôn luôn quay về hướng mặt trời, cha Hòa cũng vậy, tình quê dào dạt trong lòng ông. Ông thường nhắc đến ước mơ được về quê cầm lại cái cày, cán cuốc. Nhưng điều ao ước tầm thường, nhỏ nhặt đó cũng mịt mùng, xa xôi, cũng thăm thẳm khó đạt, khó với tới như cái hy vọng được thấy hoà bình vãn hồi trên mảnh đất thân yêu.
Cha Hòa
ngạc nhiên thấy thù hận bây giờ nhạt nhoà hẳn trong trí nhớ, mối thù mà ông từng
nghiến răng thề sẽ trả cho bằng được, ngày đêm ôm ấp đợi chờ từng phút từng giờ
đó, sao bây giờ tan biến như sương buổi sớm, như khói lam chiều, không để lại
dấu vết nào. Thù oán làm chi nữa ? Cha mẹ mình có sống lại được đâu ? Mà chắc
gì kẻ gây tội ác được sung sướng ? Chưa biết chừng ruộng đất đó đã đổi chủ cũng
nên ? Chao ! Cuộc đời dâu bể…
Cha Hòa
không mong muốn được làm giàu. Giàu có thì sung sướng chi ? Ông cho rằng dù
giàu có đến bao nhiêu đi nữa, người ta vẫn ngủ một đêm bảy hay tám giờ, mỗi lần
chỉ mặc một bộ quần áo và ban đêm không thể choán chỗ trên hai chiếc giường.
Ông tỏ ý thương hại những người giàu có khư khư khổ sở chắt bóp để có thêm mà
không dám tiêu dùng chuyện đáng tiêu, như vậy có sung sướng chi đâu ? Mình làm
chủ của cải chớ của cải sao làm chủ được mình ?
- Chuyện
gì gọi là chuyện đáng tiêu đâu ? Làm sao anh biết ?
Mẹ Hòa
cười, gặng hỏi. Cha Hòa nghiêm trang :
- Sao tôi
lại không biết chuyện đáng tiêu ? Như tôi đây này, tôi mà có tiền nhiều thì tôi
cất trường học, xây nhà thương, làm những việc có ích…
- Nhưng
anh thì làm gì có nhiều tiền để làm nổi những chuyện có ích ? Còn nói thí dụ
như anh có tiền, biết chừng đâu lúc ấy anh lại đổi tính nghĩ khác cũng nên…
- Khác
làm sao đâu ?
- Nghĩa
là anh cũng nghĩ như những người mà anh chê hiện nay đó : khư khư ky cóp kiếm
thêm…
Cha Hòa
kêu lên, vẻ phật ý :
- Trời ơi
! Mẹ thằng Hòa ! Mình cho tôi là hạng người gì chớ ? Tôi này, cha thằng Hòa,
cha con Mai này mà lại không biết chuyện như vậy hay sao ?
Không đời nào !
Hai người
cười vang lên. Các con cũng cười theo. Chúng vui vì thấy cha mẹ vui.
Những lúc vắng nhà lâu, cha Hòa gửi thư về. Ông cũng là tay văn chương có hạng.
Ông viết như sau : “… Anh nhớ mình với các con lắm, cho đến nỗi nhiều khi anh muốn từ bỏ quách cái nghề tài xế này đi. Anh biết là mình cũng muốn vậy, song nghĩ lại anh thấy không thể nào ngồi không, chờ mình chạy gạo cho cả nhà được.
Những lúc vắng nhà lâu, cha Hòa gửi thư về. Ông cũng là tay văn chương có hạng.
Ông viết như sau : “… Anh nhớ mình với các con lắm, cho đến nỗi nhiều khi anh muốn từ bỏ quách cái nghề tài xế này đi. Anh biết là mình cũng muốn vậy, song nghĩ lại anh thấy không thể nào ngồi không, chờ mình chạy gạo cho cả nhà được.
Mình đáng
được sung sướng hơn. Các con cần học hành tới nơi, tới chốn. Chuyện con Mai
thôi học tôi buồn lắm đó, tôi không muốn vậy, nhưng bởi mình nghèo, phải chịu
thôi.. Con Mai nay học may đã khá chưa ? Chừng nào thì ba khỏi đem vải ra cho
thợ ? Còn Hòa, con mà đậu tiểu học thì ba sẽ cho con cái xe đạp. Gắng lên ! Con
Mai sẽ có máy may. Chịu không ? Còn Bé nữa, ba không quên đứa nào đâu. Kỳ này
ba đi xa, khó nhọc nên ba có nhiều tiền hơn.
Mưa dữ
quá, lại lạnh nữa. May nhờ mẹ con phòng xa bỏ trong xách ba cái áo len chớ
không thì phải biết. Mẹ con là người biết chuyện. Ba cảm ơn mẹ con nhiều lắm
đó. Chắc vài tuần nữa ba về. Chỉ tại cái xe nó già rồi, hay làm nũng, nằm vạ
luôn, thật khó chìu, khó dỗ. Tức cười không ? Ba cũng già mà không làm nũng,
cái xe thì trái lại. Đi xa thì dỗ xe, về nhà thì dỗ các con. Coi chừng kẻo mẹ
đánh, không có ba, không ai dỗ đâu, nghe không ?
Thôi, ba
ngừng nơi đây. Thăm các con với mẹ, nghe không…”
Buồn cười
thay : mẹ con Hòa ít khi có dịp thưởng thức được cái tài văn chương của ông
trong khi ông vắng mặt vì một điều giản dị là thư luôn luôn về đến sau người
viết ! Mẹ Hoà phàn nàn dữ lắm, nhưng Hòa thì không. Thằng con trai ưng đọc thư
cha trước mặt cha : nó có dịp thấy cha đỏ mặt lên ngượng nghịu vì những lời lẽ
âu yếm do chính tay mình viết, do ý nghĩ thành thực của mình. Nó làm sao ấy… nó
kỳ cục… nó tiểu thuyết, chịu không được.
Người cha
nhoài tới, giằng lấy lá thư, song Hòa nhanh chân chạy biến ra đường. Khi Hòa
trở vô, ông làm bộ giận, kêu lên :
- Đưa cái
thơ đây, thằng nhỏ !
- Ủa, ba
gởi cho mẹ với tụi con thì để con đọc chớ, ba gởi làm chi mà không cho con đọc
?
Ông chịu
thua, xuống giọng :
- Thì đọc
đi, mà đừng có đọc to, thằng nhỏ rắn mắt !
Nhưng thằng
nhỏ rắn mắt không đọc nhỏ như lời cha bảo, nó đọc to cốt để trêu cha, sau
cùng mẹ nó can thiệp, đòi phết cho mấy roi vào mông, nó mới thôi.
Sau những chuyến đi xa và lâu, cha Hòa trở về với rất nhiều quà, có nhiều chuyện kể cho các con nghe và cũng nghỉ ngơi lâu hơn.
Sau những chuyến đi xa và lâu, cha Hòa trở về với rất nhiều quà, có nhiều chuyện kể cho các con nghe và cũng nghỉ ngơi lâu hơn.
Nằm trên
võng, ông nghêu ngao cất giọng ngâm một đoạn Lục Vân Tiên – vì ông không
biết gì
khác hơn :
- Làm
con đâu dám cãi cha,
Dẫu cho
muôn dặm đường xa cũng đành.
Chẳng qua là sự bất (ớ ớ… ớ) bình
Hay vầy
(ơ ơ… ơ) tôi chẳng (có) đăng trình làm chi.
Lâm nguy
chẳng gặp giải (ơ… ơ ơ) nguy,
Tiết trăm
năm cũng (a a… a) bỏ đi…
Thình
lình, ông ngồi bật dậy như cái lò xo, gọi mẹ Hòa giật giọng :
Mẹ nó đâu ? Mẹ nó ơi !
- Chuyện
gì vậy ?
- Mình
nướng bánh chưa ?
- Chưa,
chi gấp vậy ?
- Thì
nướng để kéo mạch nha cho lũ nhỏ ăn chớ chi gấp ? Người ta mua về mà không cho
con người ta ăn…
Và rồi,
ông nói hoài, lằng nhằng dai dẳng cho đến chừng mẹ Hòa phải ngừng công việc
khác, bỏ dở đó đi nướng bánh, ông mới bằng lòng..
Nằm xuống
võng, ông quên béng đoạn tiếp theo. Cũng chẳng hại gì. Ông bắt sang đoạn khác,
giọng ông trầm xuống cho hợp với tâm tình người trong truyện :
- Đã
đành đá nát vàng phai.
Đã đành
xuống chốn tuyền đài gặp (á á… á) nhau…
Ngồi thì
tim lụn dầu hao.
Hỡi (a a)
người trong tượng trầu cau đây này !
Cách nhau
đã mấy năm chầy.
Không ai
hơn thiệt cho khuây…
Đang nằm
trong lòng cha, lim dim mắt, bỗng Bé ngồi lên, vùng vằng :
- Con không chịu, con không chịu ba hát cái đó.
- Con không chịu, con không chịu ba hát cái đó.
- Mày
quyền thế dữ há ? Ba muốn hát cái nào ba hát chớ, ăn thua gì mày mà không chịu
? Làm trời hả ? Muốn đòn không ?
Mai quát
em. Người cha vội vàng ngăn :
- Thôi,
kệ em, con ! (Ông dịu dàng hỏi Bé) Sao con không chịu ? Tại cái đó buồn quá
phải không ?
- Con
không biết (Bé càng phụng phịu) con không ưng ba hát cái đó…
- Thôi,
ba hát cái hay hơn nghe không ? Ba hát hay lắm chớ không phải thứ hát rên rên
như chị
Mai với anh Hòa con đâu.
Và ông
dặng hắng lấy giọng, hát to :
- Thanh
niên Việt-nam mau bồng súng ra sa trường. Thanh niên Việt-nam không lùi bước
trước làn gươm. Tay phất cao lá cờ…
- Hay ghê
! Ba hát hay ghê !
Bé vỗ tay
tán thưởng, nhưng đúng lúc ấy người cha lại quên đoạn tiếp. Ông quên mất cái
bài hát mà năm 45, 46 ông thuộc nằm lòng, bài hát đã lôi cuốn ông cùng vô số
người trẻ tuổi. Trí nhớ mình tệ thật, ông nghĩ thầm. Bé giục :
- Hát đi
ba ! Con ưng ba hát cái đó !
Để con
vừa ý, ông xoay qua điệu cải lương :
- Nối
ngôi trời sửa trị, Trẫm tước hiệu Minh Vương, ra oai phong bủa khắp bốn phương,
rưới nước đức thấm nhuần muôn họ, nhưng mà, Trẫm nghĩ lại Trẫm giận thay cho
(ca lớn lên) các loài Tây phiên, chẳng nể, không kiêng, rất…
Lại bí.
Bé dãy lên, oà khóc. Chị Mai trừng mắt một cái, xông lại bên em :
- Đi chỗ
khác cho ba nằm. Đừng có làm rộn…
- Thôi,
Mai ! Con sao có được cái tài ăn hiếp em là nhứt. Để nó nằm với ba. Cha con tao
làm gì mặc kệ cha con tao. Mày lo theo mẹ mày đi ! Lôi thôi, tháng tới tao
không mua máy may cho đâu.
Mai lườm
em một cái, doạ :
- Còn làm
rầy ba, coi chừng đó !
Rồi Mai
xuống bếp. Tiếng võng lại kẽo kẹt, cha Hòa nằm xuống, trở lại đoạn thơ Lục
Vân Tiên
dang dở vừa chợt nhớ ra.
Cha Hòa
như thế đó : cưng con, quí vợ, vui vẻ, hiền lành, tận tâm, chăm việc.
Cho đến
nỗi bà Năm bán quán vẫn nói với mẹ Hòa :
- Mày
thiệt là có phước ! Có thằng chồng sao mà tốt nết quá chừng ! Từ hồi về đây tới
nay hai
năm, tao chưa bán cho nó được một đồng bạc rượu, gói thuốc lá cũng không.
Chương 03
Một buổi chiều, mẹ con Hoà đang quây quần bên mâm cơm. Mai nói :
- Phải có ba ở nhà mà ăn cơm giờ này chắc ba chê liền, ba nói mình
ăn giống như gà đặng lên chuồng sớm, phải không mẹ ?
Mẹ chưa nói gì thì em Bé, vốn được ba nuông chìu, nghe nhắc đến
ba, buông đũa liền :
- Cơm dở lắm, con không ăn. Chờ ba về có đồ ăn ngon con mới ăn.
- Rồi đa ! Đừng làm trời ! Ba chưa về đâu mà làm bộ. Ăn đi, chờ ba về đã rồi làm nũng, cô Tư ! Nói cho mà…
- Cơm dở lắm, con không ăn. Chờ ba về có đồ ăn ngon con mới ăn.
- Rồi đa ! Đừng làm trời ! Ba chưa về đâu mà làm bộ. Ăn đi, chờ ba về đã rồi làm nũng, cô Tư ! Nói cho mà…
Hòa đang nói bỗng ngừng bặt, kêu lên thất thanh hai tiếng :
- Mẹ ! Mẹ ơi !
Nghe giọng Hòa, mẹ cũng đâm hoảng lên, bà hỏi dồn :
- Cái gì ? Hả ? Cái gì mà…
Hòa ríu lưỡi lại, nghẹn cứng họng, lặng lẽ giơ cao đôi đũa đang
cầm trong tay chỉ ra hiên, mọi người cũng nhìn theo : trên bậc thềm sừng sững
một người vừa bước lên, người phụ của cha Hòa !
Băng keo dán kín một bên mắt, băng ga quấn trắng toát khắp cánh
tay, chân bước hơi khập khiễng, Miên đang tiến lại bên mấy mẹ con với dáng bộ
buồn rầu chưa từng thấy. Mẹ Hòa đứng bật dậy, thốt lên một câu nghẹn ngào trong
cổ họng :
- Miên ? Bác Hai đâu ? Ổng… ?
Rồi tiếng bà tắt nghẽn. Miên lắc đầu, uể oải ngồi phệch xuống ghế,
trông như người kiệt sức vì vượt qua sa mạc giữa trưa. Giọng anh lắp bắp, đứt
quãng :
- Bác trai… còn đâu nữa… Bác đã… Bác ơi !...
Và anh ta bưng lấy mặt khóc rấm rức, khóc thảm thiết. Mẹ Hòa chưa
chịu tin cái tin dữ ấy. bà run run gặng lại :
- Hả ? Miên, mày nói… ?
Miên gật đầu một cách khó nhọc, xác nhận lời mình lần nữa :
- Dạ, phải ! Bác đã… dạ !...
Mai run bần bật, xô lại níu tay Miên :
- Anh Miên ! Ba tôi chết hả ? Sao lại chết ? Anh Miên ? Anh nói…
Mẹ Hòa ngồi lặng. Bà không khóc lóc, không gạn hỏi nữa. Mặt bà xám
ngoét, bà rũ gục xuống như cái xác không hồn. Anh Miên cuống quít :
- Trời ơi ! Bác ơi ! Bác phải bình tĩnh chớ ! Bác làm sao vậy ? Cô
Mai ơi ! Làm sao…
Bé ngạc nhiên quá, nó hết nhìn người này đến người kia. Bé còn nhỏ
quá, nó đâu đủ trí khôn để hiểu được chuyện ghê gớm xảy ra. Mai và Hòa bật khóc
nhưng khi thấy mẹ lả đi thì cả hai ráo hoảnh mắt, gọi rối rít : “Mẹ ơi ! Mẹ ơi
!”
Người mẹ khốn khổ vẫn nghe mang máng tiếng hai con bên tai nhưng
cổ bà nghẹn cứng, tim bà như ngừng đập, tay chân lạnh giá, bà giương đôi mắt
thất thần nhìn con rồi bà lịm dần, lịm dần.
Miên càng bối rối. Chỉ tại mình mang tin dữ đến. Anh thù ghét, ghê
tởm công việc của anh. Nhưng biết làm sao hơn ? Tránh trút cho ai ? Bổn phận
anh là phải mang tin đó về cho vợ con người xấu số, vì người chủ xe muốn tránh
mặt trong trường hợp đau thương ấy. Sớm hay muộn, anh cũng phải báo tin dó cho
gia đình Hòa. Vả lại, còn việc chôn cất người chết nữa.
Mai sực nhớ đến bà Năm bán quán, cô gái chạy như bay đến nhà bà,
vừa thở vừa lôi bà qua nhà mình. Bà Năm tiên đoán được đôi chút thái độ Mai.
Nhưng bà cũng hỏi :
- Cái gì ? Cái gì ? Con phải nói rõ chớ ?
- Cái gì ? Cái gì ? Con phải nói rõ chớ ?
- Mẹ con…
Cô gái chỉ nói được hai tiếng rồi thôi, nước mắt ràn rụa tuôn
trào. Bà Năm không gạn hỏi lôi thôi nữa, lẳng lặng theo Mai. Lên khỏi bậc thềm,
thấy quang cảnh đó bà khựng lại, kêu lên :
- Trời ơi ! Mẹ mày làm sao vậy ? Khổ chưa ? Đầu đuôi ra sao ? Cái
gì vậy, Miên ?
- Dạ, bác trai chết rồi, bà Năm ơi ! Con về…
- Chết ?
Bà Năm sửng sốt kêu lên rồi lặng đi một giây, bà quá xúc động vì
cái tin không bao giờ bà ngờ được đó.
Giây phút kinh hoàng qua đi, bà tỉnh lại. Phải lo cho người sống !
Bà lẩm bẩm một mình : “Phải lo cho người sống !” Bà lại gần mẹ Hòa, sờ tay lên
ngực, lên mũi mẹ Hòa, ra lệnh :
- Thằng Miên, con Mai ! Coi phụ với tao một tay, mau !
Ba người xúm lại vực mẹ Hòa lên. Mẹ Hòa mềm nhũn, lạnh ngắt làm
Mai càng khiếp đảm. Cô gái nức nở :
- Mẹ ơi ! Đừng chết bỏ tụi con ! Mẹ ơi !
Hòa níu cứng bà Năm :
- Mẹ con chết không bà Năm ? Mẹ con không chết chớ, bà Năm ?
- Bậy bạ nào, chết chóc cái gì ? Đừng làm rối, tụi nhỏ !
Bà gắt nhẹ và cho tay vào túi áo lấy ra lọ dầu nóng xoa khắp người
mẹ Hòa.
- Đem lò lửa đây cho bà coi, mau !
- Đem lò lửa đây cho bà coi, mau !
Miên lật đật theo Mai xuống bếp. Hòa lăng xăng bên bà Năm, ruột
nóng như cào, nó chưa ăn qua một chén cơm, mà không thấy đói chút nào. Sợ mẹ
chết, Hòa quên bẵng đi chuyện cha chết. Bà Năm vừa xoa dầu cho mẹ Hòa, vừa kêu
nho nhỏ :
- Tội nghiệp quá ! Chết chi mà…
Bà lặng lẽ khóc, nước mắt ràn rụa trào ra, lăn dài xuống đôi gò má
nhăn nheo. Bà quay phía khác, lén lút gạt đi nhưng nó cứ trào ra, trào mãi.
Nghe tiếng “chết” và thấy bà khóc, Hòa càng hãi, nó gào to :
- Mẹ ơi ! Mẹ chết bỏ tụi con…
- Đừng nói bậy ! Chết chóc cái gì, chạy qua bên nhà bà lấy đem đây
ít trái bồ kết, coi !
- Chi vậy bà Năm ? Bộ gội đầu cho mẹ thức dậy hả, bà Năm ?
- Chi vậy bà Năm ? Bộ gội đầu cho mẹ thức dậy hả, bà Năm ?
Bé tò mò hỏi, giọng nó ướt sũng. Nó hơi thoang thoáng hiểu. Hòa
cắm cổ chạy biến, quên cả dạ. Chỉ chút xíu, lửa và bồ kết đã có đủ. Bà Năm bẻ
nhỏ mấy trái bồ kết bỏ lên lò lửa, mùi bồ kết cháy xông lên khét lẹt, toả khắp
nhà. Bé và Hòa ho sặc sụa. Mắt người nào cũng đỏ hoe. Bà Năm kê lò lửa, trên đó
mấy trái bồ kết đang cháy lấp lánh, sát bên mũi mẹ Hoà, tay giật giật mái tóc
mai của mẹ Hòa, miệng kêu tên mẹ Hòa không ngớt.
Bé hét lên :
- Bà Năm làm đau mẹ, Bé ghét bà Năm…
Mai bịt miệng em, lôi bừa con bé ra ngoài, bà Năm hiền lành nói :
- Kệ trẻ nhỏ, đừng rầy nó làm chi, Mai ! Con nít biết gì…
Mấy cặp mắt đều đổ dồn, chăm chú vào mẹ Hòa. Mai mím môi, nén
khóc. Cô sốt ruột nhưng không dám hỏi. Cô tưởng như tiếng nói của mình cất lên
có thể nguy hại đến tính mạng mẹ mình. Hòa cũng vậy. Bà Năm băn khoăn :
- Sao lạ vậy kìa ? Sao nó không tỉnh kìa ?
Miên đứng dậy :
- Hay là để con qua kêu anh Tú chích cho bác một mũi ?
- Phải ! Phải, tao lú đi chớ ! Đi mau đi, Miên !
Miên bước ra chưa khỏi ngõ thì bỗng mẹ Hòa hắt hơi một cái, bà đã
hồi tỉnh.
Tức thì bà Năm kêu giật Miên lại :
- Thôi ! Miên ! Khỏi ! Đừng đi nữa, Miên !
Rồi bà cúi xuống sát mặt mẹ Hòa, giọng bà êm ái, bùi ngùi :
- Mẹ thằng Hòa ! Mày tỉnh rồi phải không ? Đừng có bậy bạ nghe
không ? Bộ mày
không nghĩ tới lũ con sao ? Không thương lũ con sao ? Bộ mày…
Ba cái miệng cùng kêu lên một loạt :
- Mẹ ơi !
Mẹ Hòa mở bừng mắt, đôi mắt chứa đầy kinh hoàng thống khổ, nhưng rồi
bà nhắm lại ngay. Bà muốn ngủ quên, muốn mê lại, không muốn nhớ đến cái tin dữ
vừa rồi. Hai bên khoé nước mắt trào ra, đọng lại, bà nghiêng về một phía, và
nước mắt bà chảy, chảy rưng rưng, rưng rưng, liên tục không ngừng.
- Tôi còn sống làm chi nữa ? Hở trời ! Tôi sống làm sao được nữa ?
Hở trời !
Giọng bà làm mủi lòng lũ con, Miên và cả bà Năm. Những tiếng khóc
bị ngăn chặn, bấy giờ được khơi ra như giòng suối mới khai thông.
Rõ là quang cảnh của một nhà có đại tang.
***
Xác cha
Hoà quàng trong nhà thương. Bà Năm bàn với mẹ Hòa nên để yên trong đó chờ khâm
liệm rồi đem an táng luôn. Bà cương quyết ngăn cái ý muốn của mẹ con Hòa là
mang xác về nhà, dù mấy mẹ con đều ưng như vậy.
- Không nên, mẹ thằng Hòa phải nghe tao, tao già cả, không nói bậy bạ đâu. Đừng đem về không nên. Tục lệ ông bà phải nghe theo…
- Không nên, mẹ thằng Hòa phải nghe tao, tao già cả, không nói bậy bạ đâu. Đừng đem về không nên. Tục lệ ông bà phải nghe theo…
- Tục lệ…
tục lệ gì kỳ quái : nhà đây, con đây vợ đây mà phải nằm một mình lạnh lẽo…
Mẹ Hòa ngưng bặt, tấm tức khóc không ra tiếng. Trông mẹ khóc, Hòa đau nhói tận tim. Nó không quen thấy người thân yêu khổ, thà nó khổ, nó chịu hơn. Nó không hiểu rằng khóc được, mẹ nó vơi bớt khổ đau đang chĩu nặng trong lòng.
Em Bé không dám mè nheo vòi vĩnh nữa. Chị Mai nghỉ học may, không buồn chải mớ tóc óng mượt mà chị ấy thường săm soi, vuốt ve mỗi sáng mỗi chiều. Cả nhà rối lên vì ngườinằm xuống . May sao, có bà Năm, người láng giềng có tuổi, tốt bụng và có Miên giúp cho mọi việc, nếu không chẳng biết ra sao.
Mẹ Hòa ngưng bặt, tấm tức khóc không ra tiếng. Trông mẹ khóc, Hòa đau nhói tận tim. Nó không quen thấy người thân yêu khổ, thà nó khổ, nó chịu hơn. Nó không hiểu rằng khóc được, mẹ nó vơi bớt khổ đau đang chĩu nặng trong lòng.
Em Bé không dám mè nheo vòi vĩnh nữa. Chị Mai nghỉ học may, không buồn chải mớ tóc óng mượt mà chị ấy thường săm soi, vuốt ve mỗi sáng mỗi chiều. Cả nhà rối lên vì ngườinằm xuống . May sao, có bà Năm, người láng giềng có tuổi, tốt bụng và có Miên giúp cho mọi việc, nếu không chẳng biết ra sao.
Trong mấy
ngày đó Hòa như người nửa tỉnh, nửa mê, y như kẻ bị chứng mộng du, cử động nói
năng do một sức sai khiến ngoài ý muốn. Ôi chao ! Sao mà chán nản, sao mà đau
đớn, sao mà mỏi mệt đến nhường này ? Hòa không nhớ gì, không quan tâm đến cái
gì mà cũng không buồn suy nghĩ gì, một thói quen mà Hòa có từ khi cắp sách đến
trường. Hình như ngoài những khuôn mặt quen thuộc vừa kể trên, còn thấp thoáng
một khuôn mặt nữa, cũng quen thuộc với Hòa : khuôn mặt của thầy giáo Hòa. Song
bởi quá đau đớn và xúc động, Hòa không hề tự hỏi tại sao thầy có mặt tại nhà
mình.
Thỉnh thoảng đâu đây như văng vẳng tiếng ngâm thơ của cha Hòa :
Thỉnh thoảng đâu đây như văng vẳng tiếng ngâm thơ của cha Hòa :
“Vân Tiên
anh hỡi cố tri !
Suối vàng
có biết chuyện ni chăng là ?
Tay lau
nước mắt trở ra…”
Phải !
Bây giờ thì Vân Tiên đã nằm xuống rồi ! Làm sao ông biết những gì xảy ra ?
(Không biết do một liên tưởng nào Hòa lại cho cha mình là Vân Tiên, người trong
truyện mà cha thường nhắc đến, người anh hùng giữ tròn trung, hiếu, nghĩa,
tình, đã hứng chịu nhiều khổ sở thử thách mà cuối cùng vẫn sống sót, đoàn tụ,
yên vui với gia đình) Làm sao ông biết rằng con mình đang khổ ? Hoà gạt nước
mắt, cố ru mình bằng cái ý nghĩ : “Biết chừng đâu cũng như Vân Tiên, ông
chết giả ? Không phải là chết thật, ông mất tích ít lâu ? – Vì hoạn
nạn mà ! -- Rồi lại lừng lững trở về trong một lúc bất ngờ nhất, mang theo
không biết bao nhiêu là quà cho mẹ con mình ? Lúc đó thì… phải biết !”
Bà Năm ra lệnh cho Bé ở nhà chơi , không được vô nhà thương. Chỉ hai đứa lớn được đi thôi. Đó là nhờ thầy giáo Hòa nằn nì lắm chớ không thì chưa chắc Hòa được đi. Lạ kỳ quá : từ mấy ngày nay chuyện gì cũng do bà Năm với thầy giáo quyết định, mẹ không có quyền gì hết. Nhưng thỉnh thoảng thầy giáo phải nhường quyền đó cho bà Năm, vả lại, thầy thoạt đó đã mất dạng hồi lâu, chứ không hiện diện thường xuyên như bà Năm. Trên đường vô bệnh viện, Hòa thấy mình tỉnh táo hơn.
Trong nhà thương, một toán người ăn vận nom như lính lệ thời xưa trong sách, áo viền, quần nẹp, sẵn sàng trong công việc liệm xác cha Hòa. Bà Năm thay mặt mẹ Hòa đứng lên nói vài lời cảm ơn và mời từng người một “nâng chén rượu lạt” trước khi bắt tay vào việc. Họ cũng nói phải trái lại vài tiếng rồi uống rượu, rửa tay sạch sẽ bằng rượu nữa. Một người khôi hài :
Bà Năm ra lệnh cho Bé ở nhà chơi , không được vô nhà thương. Chỉ hai đứa lớn được đi thôi. Đó là nhờ thầy giáo Hòa nằn nì lắm chớ không thì chưa chắc Hòa được đi. Lạ kỳ quá : từ mấy ngày nay chuyện gì cũng do bà Năm với thầy giáo quyết định, mẹ không có quyền gì hết. Nhưng thỉnh thoảng thầy giáo phải nhường quyền đó cho bà Năm, vả lại, thầy thoạt đó đã mất dạng hồi lâu, chứ không hiện diện thường xuyên như bà Năm. Trên đường vô bệnh viện, Hòa thấy mình tỉnh táo hơn.
Trong nhà thương, một toán người ăn vận nom như lính lệ thời xưa trong sách, áo viền, quần nẹp, sẵn sàng trong công việc liệm xác cha Hòa. Bà Năm thay mặt mẹ Hòa đứng lên nói vài lời cảm ơn và mời từng người một “nâng chén rượu lạt” trước khi bắt tay vào việc. Họ cũng nói phải trái lại vài tiếng rồi uống rượu, rửa tay sạch sẽ bằng rượu nữa. Một người khôi hài :
- Thôi,
uống vừa vừa, cha nội ! Chừa lại để tắm rửa cho xác chết, đừng có mềm môi uống
quá độ…
Hòa bực
lắm, người ta có thể đùa cợt trong trường hợp thế này sao ? Nhưng cũng nhờ vậy
mà Hòa biết rằng người ta không tắm rửa xác cha mình bằng nước mà là bằng rượu.
Trân trọng như vậy là phải lắm. Hòa nghĩ.
Mặc dù
Miên và bà Năm ngăn lại, khi cửa nhà xác vừa he hé là Hòa chui tọt vô liền. Hòa
nhớ cha quá, thương quá nên quên cả sợ. Mà sao phải sợ ? Cha mình chớ phải ai
xa lạ chi sao ?
Ghê quá :
trong đó không phải chỉ mình cha Hòa thôi. Qua hai lớp cửa dày, phòng trong có
nhiều băng ca sắp hàng hàng và trên mỗi cái đều có một xác người. Khí lạnh ập
vào mũi Hòa, mùi hôi như thật đậm, thật đặc, nhưng chìm dưới thấp, chắc là tại
quạt máy dìm nó xuống, không cho xông lên ? Người ta khiêng băng ca đựng cha
Hòa ra phòng ngoài, nghĩa là cách phòng đựng xác một bức tường, chớ cũng trong
phạm vi phòng xác. Hòa liếc qua một cái, không dám nhìn kỹ, xác nào cũng được
đắp kín từ đầu chí chân. Vậy mà có cái thò chân ra, da tái ngắt và như khô tóp
lại, có cái bày đầu ra, tóc phất phơ trông thật hãi !
Cuộc khâm
liệm bắt đầu. Người ta giở cái mền đắp trên mình cha Hòa ra, thân mình ông trần
trụi không một mảnh vải che (điều đó làm mẹ Hòa đau đớn quá mức, bà hét lên một
tiếng và ngất liền khi vừa thấy), Hòa hoa mắt lên, mím môi lại cố hết sức can
đảm để nhìn cha nhưng chỉ thấy thoáng qua : cha Hoà mất hẳn đi một bên vai,
lủng lấm tấm ở ngực, máu đọng lại, khô trên những vết lấm tấm đó. Từ miệng ông
một giòng máu bò ra, đóng khô quánh, in một vệt dài xuống tận cằm. Một mảnh da
đầu bay mất, da ông trắng bệch và đặc biệt nhất là ông có vẻ dài hơn nhiều, so
với khi còn sống, dài ngoằng. Đôi mắt ông không nhắm kín như khi ngủ, có vẻ
trợn trừng và lòng trắng nhiều hơn lòng đen.
Hòa đau
lặng, đau tê mà mắt vẫn ráo hoảnh.. Tội nghiệp cha mình biết chừng nào !
Chắc cha
mình đã phải đau đớn nhiều, nhiều lắm trước khi chết ? Người ta lấy rượu rửa
ráy cho ông trong lúc Hoà đứng bất động vì xót đau và sửng sốt… Ông có làm ai
đau đớn bao giờ đâu ? Một con chó, con gà ông cũng không nỡ cán, kia mà ?
Cha mình
đó sao ? Chết rồi ? Chết thật rồi ? Sao mà dễ dàng vậy ? Mau chóng vậy ?
Sao mà
tàn nhẫn vậy ? Vô lý thật ! Ông tội lỗi gì ? Ai giết ông ? Sao phải chôn đi ?
Ước gì người ta đừng tính đến chuyện đó, cứ để cho Hòa được thấy mặt cha, dù từ
nay ông cứ nằm yên, nằm mãi trong dáng bộ im lìm, đau đớn, lặng lẽ đó… Hòa ưng
thấy như thế để đau đớn vò xé lòng Hòa. Hòa thích thế. Hòa muốn thế ! Không !
Hòa không dám đòi hỏi chi hơn. Hòa xích lại cho gần xác chết thêm chút nữa. Hòa
se sẽ sờ vào tay cha, bàn tay dính be bét máu khô chưa được rửa. Lạ chưa : tay
cha Hòa sao mà nhám, cứng và lạnh buốt. Cái cảm giác giá buốt đó như chuyền
ngấm vào da Hòa làm thằng bé bàng hoàng lùi lại, bật lên một tiếng kêu thảng
thốt.
Không !
Không phải cha Hòa ! Hòa cảm thấy dửng dưng, xa lạ với cái xác kia quá, cái xác
mà trước đó một giây, Hòa biết đúng là cha mình, Hòa ao ước được nhìn thấy mãi.
Hòa đã nhìn cái xác đó bằng hai mắt thương xót không cùng, trước khi đụng đến.
Thôi ! Hết rồi, thật hết rồi ! Hết cả rồi…
Hòa bưng
mặt rưng rức khóc, không phải khóc vì thương cha mà vì cảm thấy mình tội lỗi
quá, bạc bẽo quá, bất hiếu quá, không muốn nhìn chính cha mình ! Bởi thấy mình
xa lạ, dửng dưng trước xác cha mình. Chôn đi là phải ! Chôn đi là phải ! Hòa
không muốn nhìn đâu… Hòa cố nén, nếu không, nó đã phải kêu lên như thế.
Hòa run
bây bẩy, nó thấy mình vừa đúng vừa sai, nó muốn lại gần nhìn cha lần nữa nhưng
như có bàn tay vô hình nào kéo nó lùi ra xa. Hòa mất cả tự chủ… Anh Miên dìu
Hòa ra, nó gục đầu vào lòng anh Miên, đau đớn, hối hận, sợ hãi chen lẫn trong
lòng nó.
Chắc cha mình đã đau nhiều lắm trước khi tắt thở ? Tội nghiệp cha ! Ông chết khổ sở quá ! Ý nghĩ đó làm tim Hòa lại đau nhói lên, rồi thốt nhiên như ngừng đập.
Hoà đau dội, đau nhói cả lồng ngực.
Chắc cha mình đã đau nhiều lắm trước khi tắt thở ? Tội nghiệp cha ! Ông chết khổ sở quá ! Ý nghĩ đó làm tim Hòa lại đau nhói lên, rồi thốt nhiên như ngừng đập.
Hoà đau dội, đau nhói cả lồng ngực.
Thình
lình, Hòa có cảm tưởng như nỗi thống khổ xoắn chặt lấy nó, thu hút sạch sức
nặng của nó, nâng bổng nó lên làm nó lơ lửng, chơi vơi giữa không trung, không
bám víu vào đâu được. Và đột nhiên, sức nặng trở lại cũng bất ngờ như khi bị
thu hút vậy – Hòa rơi từ trên cao vút xuống, thẳng tuột với một tốc lực nhanh
ghê gớm, tưởng sẽ phải nát ngướu cả xương, da. Hòa chóng mặt, nhắm chặt hai mắt
lại, tuyệt vọng chờ đợi phút kinh hoàng đó… Mà rồi không : Hòa rơi trên mặt
biển, lập lờ, chao đảo, bập bềnh… Hòa hoang mang không biết mình tỉnh hay mê,
mọi điều xảy ra là thực hay mộng, cho đến khi mùi rượu sực nức ập vào hai mũi
và tiếng khóc thê thảm của mẹ nó vọng mồn một vào tai làm nó tỉnh hẳn.
Đầu óc
trống rỗng, tứ chi rã rời, một nỗi chán chường đè nặng lên Hòa, xâm chiếm lấy
Hòa.
Lần đầu trong cái tuổi ngây thơ, sung sướng của mình, Hòa cảm biết, hiểu, hiểu một cách thấm thía thế nào là khổ đau, thiếu thốn. Sự mất mát to lớn quá, choán rợp lấy Hòa. Nó ngơ ngác như một kẻ bị đẩy ra giữa muôn ngàn sắt máu mà không biết cầm khí giới. Như một người chưa được võ trang mà bị xua ra mặt trận…
Trong lặng lẽ, sâu kín của lòng nó, một tiếng nói vọng lên, xót xa thấm thía :
- Tâm ơi ! Bây giờ tao khổ hơn mày rồi đó, hơn nhiều lắm, Tâm ơi !
Lần đầu trong cái tuổi ngây thơ, sung sướng của mình, Hòa cảm biết, hiểu, hiểu một cách thấm thía thế nào là khổ đau, thiếu thốn. Sự mất mát to lớn quá, choán rợp lấy Hòa. Nó ngơ ngác như một kẻ bị đẩy ra giữa muôn ngàn sắt máu mà không biết cầm khí giới. Như một người chưa được võ trang mà bị xua ra mặt trận…
Trong lặng lẽ, sâu kín của lòng nó, một tiếng nói vọng lên, xót xa thấm thía :
- Tâm ơi ! Bây giờ tao khổ hơn mày rồi đó, hơn nhiều lắm, Tâm ơi !
Chương 04
Hòa đang học bài để thi. Trong đầu nó hai ý kiến tương phản như
hai cái mũi nhọn cứ chực đâm nhau. Ban đầu Hòa nghĩ “phải rán học để thi đậu,
mẹ mừng”. Rồi nó lại nghĩ : “Đậu để chi chớ ? Cha chết rồi, ai biết công cho
mình ? Mẹ cứ nói học nhờ tấm thân hoài, ghét quá !” Nghĩ đến đó, Hòa đâm chán
nản, chỉ muốn buông xuôi.
Từ ngày cha Hòa chết mẹ nó đâm ra gắt gỏng, khó tính. Bà như mất
tin tưởng ở trời phật, ở lòng người. Hừ ! Trời phật ! – Bà kêu lên trong bóng
tối -- nếu có trời phật, sao trời phật lại để cho một người hiền lành, tốt
bụng, tận tâm như chồng bà phải chết, chết tức tưởi giữa đường, giữa sá như vậy
chớ ? Không, ông đã táng mạng vì tận tâm, vì tốt bụng : đáng lẽ bỏ mặc cái xe
đó chạy thoát lấy thân như lời Miên giục, ông lại dùng dằng, do dự rồi sau cùng
quay lại chỗ đang đánh nhau mà lái xe đi. Và súng đạn của đôi bên không cần
biết đến việc làm của con người tốt bụng đó, đã nã vào người ông… và khi ông
chết rồi, chủ xe đền công ông bằng cái áo quan gỗ tạp kèm theo một số tiền nho
nhỏ, cho người mang đến chớ cũng không thèm bỏ công đến nhìn thử mặt mũi ông ra
sao.
- Cái xe chỉ bể kính, hàng hoá còn nguyên vẹn – Miên hậm hực nói –
mà họ keo kiết như vậy đó, bác thấy không ? Phải làm cho ra lẽ, chớ ?
- Thôi ! chẳng qua là cái số nó ngắn ngủi, ai ăn ở bất nhân phải
có trời soi xét, mẹ con Mai đừng để bụng làm chi. Đừng bày đặt kiện thưa, tốn
tiền vô ích. Rốt cuộc, thầy kiện họ ăn hết tiền giờ. Tao già chừng này tuổi
đầu, tao đã qua cái cửa thầy cò, thầy kiện rồi, tao biết.
- Trời ơi ! – Miên kêu lên – bà Năm, bà nói con nghe không được.
Như vậy thì chẳng lẽ không có pháp luật hay sao ? Người nghèo cứ chịu ức hiếp
hoài sao ?
- Có chớ ! – Bà Năm cười chua chát – có pháp luật chớ, nhưng pháp
luật là của kẻ có tiền, có thế lực, còn mình nghèo lại dốt nát thì đừng mong…
Câu đó vọng mồn một vào tai Hòa. À ! Ra vậy ? Pháp luật không ở về
phía kẻ nghèo khổ ? Không ở về phía kẻ dốt nát ? Không ! Hòa không chịu như
vậy. Hòa sẽ học giỏi, để không dốt nát và để làm cho pháp luật đứng về phía kẻ
dốt nát, kẻ nghèo khổ mới được. Hòa sẽ nghèo ! Được ! Nhưng nghèo mà không khổ
đâu (trừ cái khổ mất cha thì không thể tránh) Hòa sẽ cố học, thi lên, thi lên,
thi lên…
Hòa tiêu tan cái hy vọng được chiếc xe đạp sau khi thi đậu rồi.
Nhưng mà thôi, không có xe thì đi bộ, đã chết đâu ? Mất cái cột cái trong nhà
(theo giọng bà Năm thường nói) thì quả sự chống đỡ có yếu đi, song rồi đây Hòa
sẽ lớn lên thay vào chỗ đó. Hòa là con trai… Hòa mơ màng một ngày kia mình lớn
lên, học hành đến nơi đến chốn (tuy không biết học đến chừng nào mới đến nơi
đến chốn) mình sẽ đi làm đem tiền về cho mẹ, cho chị, cho em. Cái máy may của
cha mua cho chị Mai lúc đó sẽ chỉ dùng để may áo quần cho mấy chị em và mẹ mà
thôi. Chị Mai sẽ chẳng vất vả may áo cho người ngoài nữa. Hoà sẽ mua lụa tơ cho
mẹ mặc. Mẹ với ông ngoại đều ưa lụa tơ tằm. Hòa, Hòa cũng ưa nữa.
Thầy giáo có dạy Hòa là sản phẩm của mình, mình phải quí chuộng. Mình nên dùng đồ nội hoá để nâng đỡ công kỹ nghệ nước nhà. Thầy dùng chữ gì đây này… chậc ! Chữ gì mình quên rồi, nhưng mà hay lắm (Hòa bóp trán suy nghĩ) à, à ! Vọng ngoại ! Phải ! Thầy nói : “Những kẻ vọng ngoại hay ưa chuộng thứ lạ, thứ sang, thứ đắt tiền, có khi không bền, không tốt mà cũng ham, những kẻ đó không có tinh thần dân tộc, các con đừng bắt chước”
Thầy giáo có dạy Hòa là sản phẩm của mình, mình phải quí chuộng. Mình nên dùng đồ nội hoá để nâng đỡ công kỹ nghệ nước nhà. Thầy dùng chữ gì đây này… chậc ! Chữ gì mình quên rồi, nhưng mà hay lắm (Hòa bóp trán suy nghĩ) à, à ! Vọng ngoại ! Phải ! Thầy nói : “Những kẻ vọng ngoại hay ưa chuộng thứ lạ, thứ sang, thứ đắt tiền, có khi không bền, không tốt mà cũng ham, những kẻ đó không có tinh thần dân tộc, các con đừng bắt chước”
Buồn cười quá, có đứa giơ tay đứng lên hỏi lại :
- Thưa thầy, con nghe mẹ con nói đồ nội hoá cái gì cũng xấu, cũng
đắt tiền làm sao mình ưa chuộng được ?
Hòa chong mắt, lắng tai, trong lòng hồi hộp tợn : Hòa e thầy khó
trả lời câu đó, Hòa không muốn thấy thầy mình lúng túng, mà câu hỏi thì quả là
hắc búa. Hòa lo cho thầy. Thầy không chút ngập ngừng, giọng chẫm rãi, rành mạch
:
- Mẹ con cũng có lý phần nào. Bởi xứ mình đang có chiến tranh, mọi
nỗ lực đều thiên về quân sự, nhân công thiếu thốn, nguyên liệu thiếu thốn, máy
móc tối tân không có cho nên hàng hoá sản xuất kém cả phẩm lẫn lượng. Giá vốn
lại đắt, làm sao cạnh tranh nổi với sản phẩm nước ngoài ? Nhưng nếu mình biết
yêu cái gì của mình, cứ chịu khó dùng, nâng đỡ sản phẩm nội hoá, rồi đây tình
trạng sẽ được cải tiến dần dần thì sau này mình đâu có thua ai ?
Hòa thở phào một cái, nhẹ cả người. Thầy mình coi vậy chớ mà cũng
quảng bác lắm ! Thiên hạ cứ tưởng rằng chỉ mấy thầy giáo Đại học, Trung học mới
giỏi, còn thầy Tiểu học thì kiến thức lơ mơ lắm. Họ lầm to : bằng cớ là thầy
Hòa biết rất nhiều điều hay ho, cao xa kia !
Ủa, mà thôi, lan man xa quá, mình đang nghĩ đến chuyện mua sắm cho
mẹ mà ! Ờ ! Mua tơ tằm. Gì nữa đây ? Một cái nhà nhỏ ở chỗ nào mà xung quanh
không có lầu cao, chỉ có nhiều cây cối và bóng mát. Có chỗ cho mẹ nuôi gà vịt.
Hòa sẽ xui mẹ đừng nuôi heo, dơ lắm. Ngoài vườn, hai chị em sẽ trồng chuối,
cam, mãng cầu, mận và chanh. Nếu có nhiều đất thì trồng thêm mía với khoai
lang. E khó, đất ở đô thành mà làm gì có nhiều dữ vậy? Hòa sẽ mua một cái xe
gắn máy, ha ! Mình sẽ chở chị Mai với em Bé đi chơi vài tua. Mình sẽ có dịp làm
cho chị Mai hết hồn, chị ấy phải van lạy mình, mình mới chậm lại, mình lao vun
vút (sát lề tay mặt) cho chị chóng măt chơi.
Tiếc quá : thằng Tâm đi xa lắc, phải chi có nó ở đây, mình sẽ chở nó đi chơi, vui biết chừng nào ? Mà làm sao cha mẹ nó lại đi xa vậy kìa ? Tâm vẫn viết thư về cho mình kêu buồn, vì xứ tây lạnh lẽo và vì nhớ mình nữa. Được rồi, Tâm ! Nếu tao có tiền thế nào tao cũng đi thăm mày môt chuyến. Chắc còn lâu lắm, nhưng mà thế nào tao cũng đi thăm mày. Mày cứ tin tao !
Tiếc quá : thằng Tâm đi xa lắc, phải chi có nó ở đây, mình sẽ chở nó đi chơi, vui biết chừng nào ? Mà làm sao cha mẹ nó lại đi xa vậy kìa ? Tâm vẫn viết thư về cho mình kêu buồn, vì xứ tây lạnh lẽo và vì nhớ mình nữa. Được rồi, Tâm ! Nếu tao có tiền thế nào tao cũng đi thăm mày môt chuyến. Chắc còn lâu lắm, nhưng mà thế nào tao cũng đi thăm mày. Mày cứ tin tao !
Hòa mặc cho óc tưởng tượng phong phú của mình vẽ vời ra một tương
lai rực rỡ, lấp lánh và cao vút, cao vút như quả bong bóng mầu mà nó thả vào
một buổi sáng đẹp trời khi cha còn sống.
Thoắt cái, Hòa liên tưởng đến cha. Hòa nghe tưng tức và đau nhói
trong lồng ngực. Mình mơ mộng quá rồi ! Không chắc gì mình đạt tới những điều
đó. Mình sẽ đạt tới nếu còn cha. Bây giờ thì… Hòa nức lên khóc, mộng ước bị xoá
nhoà đi trong nước mắt.
***
Năm rồi Hòa thi hỏng. Chắc
phần lớn tại thầy đi lính. Ông thầy mới làm Hòa thêm thất vọng. Ông không chăm
sóc đến học trò như thầy cũ của Hòa. Ông nói luôn miệng về ông. Ông nói lảm
nhảm về thân phận con người , về nỗi buồn của tuổi trẻ và
về sự phi lý của cuộc đời ! Ông lại nói đến buồn nôn (Mà
Hòa hiểu là mửa : một hình thức nổi loạn của dạ dày khi nó không chấp nhận thức
ăn) Ông còn nói đến hiện hữu (chắc như hồn người chết hiện lên
? Hòa ngầm đoán) Về các đào , tiếng này Hoà không hiểu nổi,
sau nhờ lũ bạn kháo nhau, nó mới biết nghĩa là ý ông muốn chỉ đến những cô
gái, mèo của ông. Ông còn nói nhiều nữa, miệng ông luôn phì
phèo điếu thuốc lá và câu : “Chán bỏ xừ đi !” Ông thở dài sườn sượt mà rằng :
- Mẹ kiếp ! Ông đâu phải
ưng làm cái nghề chó chết này ? Ông đâu có ưng ? Khốn khiếp
Cơm áo trói buộc người ta như thế đấy ! Thà
ông đi lính còn hơn. Chán bỏ xừ ! Chả trách tụi nó nổi loạn cũng phải.
Tụi nó là ai ? Nổi loạn ư ?
Nổi cách nào ? Nổi làm chi ? Bọn học trò mù tịt về những lời lẽ huyênh hoang,
cao siêu đó, chẳng hiểu ngô khoai gì tất nhưng mà rất mực khâm phục thầy giáo
mới.
Không bao lâu, sau khi ông
thay thầy giáo cũ, đứa nào cũng biết nói : “Chán bỏ xừ” và “Mẹ kiếp” hết. Nhưng
Hòa thì không. Hòa không ưa, tiếng gì kỳ lạ quá, mất dạy quá. Phải, Hòa không
ưa, đời thuở nhà ai nghề dạy học mà dám kêu là nghề chó chết bao giờ ? Cái mặt
đó không đáng làm thầy giáo của Hòa đâu, trời ạ ! Khốn, nhưng Hòa đâu có quyền
chọn lựa ?
Có điều đặc biệt này : là
tuy ghét cay ông ta, cho ông ta là không đáng mặt làm thầy mình, Hòa lại lây --
từ hồi nào không biết – không phải lây tiếng nói chán của ông
ta mà là chán thật sự. Hòa không muốn học nữa. Nó chỉ đến trường cho có lệ, để
chơi, nghe nói tục, tán dóc, coi đánh lộn, gây gổ… Thì đã bảo : Hòa chán đời mà
!
Hòa bắt đầu mơ mộng, bắt
chước tụi bạn, la cà ngoài mấy rạp ciné. Có đồng nào, nó mua ngay những cuốn
sách có bìa hoe hoét, sặc sỡ và những cái tên gớm ghiếc, anh chị như : “Quỉ Đói
Hiện Về”, “Thanh Đăng so tài với Hiệp Sĩ Đầu Sắt”, “Batman đại chiến với Người
Mèo”, “Mụ Béo tìm chồng”…
Hòa thấy tay chân mình đâm
ngứa ngáy, khó chịu. Hòa quên phắt đi nhiều chuyện, cha, mẹ, thầy cũ, chị Mai,
em Bé và cả thằng bạn thân nhất của nó : thằng Tâm, nó cũng quên luôn.
Nhưng Hòa ưa nhất là những truyện kiếm hiệp mà nó thuê ngoài tiệm. Hay quá !
Nhưng Hòa ưa nhất là những truyện kiếm hiệp mà nó thuê ngoài tiệm. Hay quá !
Hòa quên tiệt, quên tất,
làm sao nó nhớ được những thực tế cam go khi mà trong những trang kiếm hiệp
không một nhân vật nào có liên hệ xa gần với gia đình, với xã hội xung quanh ?
Trong đó toàn chuyện múa kiếm dưới trăng, phi thân trong bóng tối, các Đại Hiệp
muốn đi đâu thì đi, muốn đến đâu thì đến, tha hồ tự do hành động không bị ràng
buộc bởi một ước lệ phiền toái, bởi một kỷ luật nào ? Trong đó làm gì có chuyện
giật mìn, nổ lốp, cầu sập, xe hư ? Trong đó các Nghĩa Muội Đại Huynh chẳng bao
giờ phải thổi cơm, vo gạo, các Hành Khất Đại Hiệp không hề giặt áo, mua giày,
không hề có biết đến rửa tay, tắm gội. Họ có biết đói là gì đâu ? Một viên linh
dược đủ no và những bộ hồng y, hắc y hẳn là luôn luôn sạch sẽ ? Mặt mũi tay
chân họ chắc luôn luôn trắng trẻo thơm tho nhờ bởi một phép mầu ? Không, người
trong truyện sống thật là thanh nhàn, thoải mái. Họ không có một em Bé hay mè
nheo, không có một chị gái khó tính như chị Hòa. Mải mê say, Hòa trở thành bẩn
thỉu, lười biếng cho đến nỗi mẹ và chị đều kêu ca, nhiếc mắng, vẫn không bỏ
được. Hòa không tĩnh tâm để làm gì hết, lúc nào cũng ngong ngóng chờ cái giây
phút lật sách ra thôi. Than ôi ! Trường học, bài vở lại cũng là những thứ không
có trong cuốn truyện : những nhân vật trong sách mới nứt mắt đã thông thái
tuyệt vời, nào có ai phải đèn sách chi đâu ? Làm sao Hòa không ưa được, hả trời
?
Hòa bây giờ như thế đấy !
***
Một bữa kia đi học về, mới
buông cặp, chưa kịp lục tìm cuốn kiếm hiệp thì Hòa bắt gặp vẻ hốt hoảng của chị
mình. Mẹ đang rầu rĩ bên chị Mai. Hòa hơi rờn rợn, tự hỏi “có chuyện gì đây
chắc ?” thì có tiếng Bé kêu :
- Anh Hòa ! Thầy giáo Lân
bị thương đó, anh Hòa ! Mẹ đợi anh…
Hoà há tròn miệng như chữ
o, hoang mang kinh hãi… chen hối hận. Kinh hãi vì sợ thầy chết, còn hối hận là
vì tháng trước đây thầy viết thư cho nó mà nó không thèm trả lời thầy. Xin trời
hiểu cho : Hòa vẫn kính quí thầy lắm chứ, vẫn thương nhớ lắm chứ, nhưng biết
làm sao : xa mặt cách lòng mà ! Vả chăng, những lời khuyên bảo
đâu có hấp dẫn, đâu có cám dỗ nó cho bằng những trang kiếm hiệp có nhiều nhân
vật xuất quỷ nhập thần ?
Nó chán quá, hết muốn nghe,
quên, hết muốn đọc những mệnh lệnh : con phải thế này,con
nên thế nọ rồi.
Ai biểu thầy đi lính làm chi,
bỏ người ta ở trường… cho đến nỗi này ?
Đứng lặng giây lâu, Hòa mới
tỉnh táo, hỏi :
- Thầy bị thương nặng không
? Chị Mai ?
- Không biết, nghe em thầy
qua nói lúc nãy, mẹ biểu chị đi chợ mua cam đặng chiều đem vô nhà thương cho
thầy đó.
Hòa thở dài một cái, lấy
làm hài lòng vì sự chu đáo của mẹ mình. Nó nhìn mẹ bằng hai mắt biết ơn.
- Mẹ đi với ai ?
- Con hay chị Mai cũng
được.
- Mẹ đi với thằng Hòa, con
phải ở nhà may cho xong mấy cái áo cho người ta chớ.
Hòa hơi ngần ngại một chút…
chút xíu thôi.
Hòa không muốn gặp thầy
ngay lúc này, nó có lỗi nhiều quá nên muốn tránh mặt, để mẹ đi một mình. Nhưng
rồi lòng thương thầy mạnh hơn, lấn át được cái cảm giác xấu hổ, khó chịu, nên
Hòa không cãi lại chị Mai.
***
Trời nắng dữ, đã hơn bốn
giờ chiều rồi mà còn nắng. Mẹ Hòa che miệng ngáp dài, còn Hòa, nó mất cái kiên
nhẫn bình tĩnh lúc đầu, khi mẹ nó tỏ ý phàn nàn sao chỗ này khó khăn, bắt bẻ,
hoạnh hoẹ đủ thứ không cho vô thăm liền ; họ đòi xem thẻ căn cước, gạn hỏi
người nằm trong bệnh viện tên gì, cấp bực nào, liên hệ với mẹ con Hòa ra sao
v.v… Lúc đó, Hòa tỏ ra hiểu biết, nói với mẹ :
- Luật người ta vậy đó,
mình phải chịu khó…
- Luật, luật con khỉ ! Bộ
sợ người ta vô ăn cắp hay sao ? Mỗi chút mỗi luật, biết vầy tao để cho hai chị
em mày đi, mệt lắm !
- Ý, sao được mẹ, thăm thầy
mà tụi con đi…
Mẹ Hòa tức thì lừ mắt một
cái :
- Thầy mày chớ thầy mẹ mày
chắc ?
Rồi, mẹ đã nổi nóng lên
rồi. Hòa nghĩ thầm. Giá lúc trước là Hòa đã cãi lại song bây giờ Hòa biết rõ
cái nguyên do làm mẹ bẳn tính : tại cha mình chết ! Cây cột cái trong nhà đổ
xuống mà lại ! Không ! Hòa không trách mẹ đâu. Hòa thương mẹ quá : mẹ gầy nhom,
má hóp, mắt sâu, già đi trông thấy. Hòa thở dài, nao nao trong lòng. Chao ơi !
Mới ngày nào đây… cách nhau có vài phân ván mỏng, một lớp đất dày mà hoá ra đời
đời cách biệt !
“Xa cách nhau muôn trùng… “
trong tiềm thức Hòa vọng lại giọng hát, cái giọng hát mới u buồn, thấm thía làm
sao ? Xa cách muôn trùng ! Không bao giờ nữa, Hòa còn cái hy vọng mong manh là
cha mình sẽ lừng lững trở về trong một lúc bất ngờ nhất như thể Vân Tiên trong
truyện, như lòng mơ tưởng buổi đầu khi ông vừa nằm xuống nhưng chưa nằm yên vào
lòng đất lạnh. Hòa chua chát nghĩ : cái thứ chuyện đời xưa làm gì có trong thời
đại văn minh này nữa mà mong ?
Mắt cay sè… Hòa khóc ư ?
Không ! Hòa không khóc, nó chỉ buồn thôi. Buồn nặng trĩu… Trong một thoáng, Hòa
bỗng như ngửi được cả mùi rượu rửa xác cha ngày trước, cả mùi hương gây gấy
nồng nồng toả khắp gian phòng nhỏ. Như thấy lại nét u sầu của bà Năm, của mẹ,
cái nhìn thương cảm của thầy giáo, buồn bã của anh Miên. Hòa thấy cả đôi đèn
sáp trắng đặt trên cái kệ giả thay bàn thờ kê trước đầu áo quan cha, đôi đèn
sáp lớn, được đốt và thay luôn mỗi lần sắp cháy hết. Hòa biết thế vì trọn đêm
ấy Hòa nằm ngoài cái ghế vải trước sân nhà xác, cứ mỗi lần tỉnh giấc nhìn vào
thì thấy đôi đèn soi sáng một vùng, ánh sáng như muốn xoi thủng cái tăm tối, u
ám bao quanh áo quan và từng giọt, từng giọt sáp nóng rưng rưng chảy dài xuống
quanh cây đèn y như những giọt nước mắt, liên tục không ngừng. Hình ảnh đó làm
Hòa được vững tâm, được an ủi phần nào : cây đèn sáp cũng biết cảm động, xót
thương cha nó !
Phải ! Hòa chỉ cay cay ở
mắt, nghèn nghẹn ở cổ thôi, chứ không khóc được. Vì từ khi nó lầm lũi theo sau
áo quan cha đưa ông đến nơi an nghỉ cuối cùng trong lòng đất lạnh nó đã khóc
quá nhiều rồi. Nó đã nao nức, thắc thỏm biết bao nhiêu buổi sáng, bao nhiêu
buổi chiều, khi trong bữa ăn, khi trên bàn học, có khi mơ mơ màng màng nửa
tỉnh, nửa mê, có khi trong hoàng hôn, bóng nó chập choạng, nhập nhoè cùng bóng
chiều đổ xuống… Hoà đã nín thở, thần kinh căng thẳng theo dõi từng tiếng động
nhỏ, từng tiếng gió lao xao trên ngọn cây cao, lắng tai canh chừng từng tiếng…
khi bước chân ai từ đâu vô tình lọt đến tai Hòa.
Hòa đã mỏi mòn vì ngóng
đợi. Hòa vẫn nghẹn thở mỗi lần tưởng tượng đến giây phút ấy, giây phút ông sừng
sững bước vào nhà. Chính Hòa phát giác ra ông còn sống cũng như nó đã chỉ cho
mẹ thấy anh Miên, người mang tin ông chết đến nhà bữa chiều hôm nào vậy. Bây
giờ đây, nó không còn muốn lừa dối chính mình mãi nữa. Ảo vọng kéo dài quá
nhiều ngày đã trở thành vô vọng. Hòa biết rằng không bao giờ cha Hòa còn có thể
trở về. Không bao giờ ! Ngay cả trong giấc mơ Hòa cũng không hề được thấy mặt
ông. Ông đã đi xa, xa lắm. Mà tại sao trong mơ ông cũng không chịu trở về ? Hay
là cha Hòa giận Hòa đã ham chơi hơn học mà không thèm nhìn mặt nữa ? Cha ơi !
Con có lỗi quá… không ! Không phải tại ai cả, con không đổ tại cha chết, tại
thầy đi lính nữa đâu. Mọi chuyện đều tại con. Cha không muốn chết cũng như thầy
vẫn muốn gần con lắm.
Đã lâu lắm, không bao giờ Hòa nghĩ đến cha, không hề nhớ đến những ngày xa cũ, sao bỗng nhiên chiều nay Hòa lại nhớ rành rành ? Và hối hận dày vò lòng nó ? Phải chăng vì khung cảnh bệnh viện gợi nhớ chuyện bi thảm ngày nào ?
Đã lâu lắm, không bao giờ Hòa nghĩ đến cha, không hề nhớ đến những ngày xa cũ, sao bỗng nhiên chiều nay Hòa lại nhớ rành rành ? Và hối hận dày vò lòng nó ? Phải chăng vì khung cảnh bệnh viện gợi nhớ chuyện bi thảm ngày nào ?
Hòa quay đi, không dám nhìn
mẹ, mắt đăm đăm nhìn vệt nắng dài chiếu chếch lên thềm nhà gác của bệnh viện,
thuận chân nó mon men về phía bãi cỏ xanh gần đó.
Thỉnh thoảng, một chiếc xe Jeep có chữ thập hồng lao vút tới, nhả từng lọn khói phía sau. Bên trên tuy đã được buông “rèm” phủ kín, đôi khi Hòa nom thấy thò ra đôi giày lính chúc mũi xuống sàn xe giữa khoảng không, đung đưa, quờ quạng. Hòa nghe gây gấy lạnh, trí khôn của nó báo cho nó biết rằng người mang giày đã tắt thở rồi ! Chao ơi ! Chuyện ngoài đời thật bi thảm, khác xa trong sách !
Thỉnh thoảng, một chiếc xe Jeep có chữ thập hồng lao vút tới, nhả từng lọn khói phía sau. Bên trên tuy đã được buông “rèm” phủ kín, đôi khi Hòa nom thấy thò ra đôi giày lính chúc mũi xuống sàn xe giữa khoảng không, đung đưa, quờ quạng. Hòa nghe gây gấy lạnh, trí khôn của nó báo cho nó biết rằng người mang giày đã tắt thở rồi ! Chao ơi ! Chuyện ngoài đời thật bi thảm, khác xa trong sách !
Một lát sau, có tiếng kêu
vói ra từ thềm nhà gác :
- Mẹ con bà kia ! Tới giờ
thăm bịnh đó, vô đi !
Hòa hấp tấp chạy lại, đỡ
giỏ cam trên tay mẹ và hai mẹ con cùng sóng bước bên nhau. Gió nổi lên xào xạc
trong chòm cây trước mặt. Hòa nhẹ cả người.
***
Hai mẹ
con loanh quanh hồi lâu. Bệnh viện này sao mà rộng quá. Trại nào cũng giống
trại nào tìm đến thở dốc mà chẳng thấy chỗ muốn tìm. Khu giải phẫu, khu nội
thương, khu hồi sinh, khu ngoại thương v.v… rồi lại chia ra nội thương 1, nội
thương 2… ngoại thương 4, ngoại thương 5, ngoại thương A, ngoại thương B gì gì
đó nữa không kể xiết, làm Hòa muốn phát khùng lên. Nếu không phải là vào thăm
thầy Lân, thầy giáo mà nó quí mến chắc Hòa đã xúi mẹ trở về quách cho xong..
Mẹ Hòa dừng chân, kéo vạt áo lau mồ hôi đang bò ròng ròng xuống cổ, xuống trán, cao giọng hỏi con :
Mẹ Hòa dừng chân, kéo vạt áo lau mồ hôi đang bò ròng ròng xuống cổ, xuống trán, cao giọng hỏi con :
- Con có
chắc thầy nằm khu ngoại thương không ?
- Chắc
chớ, mẹ ! Thầy con đâu có đau bịnh gì ? Bị thương tức là ngoại thương đó, con
biết mà.
Mẹ Hòa
nhìn con bằng cái nhìn tin tưởng, gần như thán phục sự hiểu biết rộng rãi của
con, bà nói :
- Vậy thì
cứ chịu khó tìm, thế nào cũng tìm được. Đưa mẹ xách cho kẻo mỏi tay.
Hòa trao giỏ cam lại cho mẹ để rảnh tay, dễ tìm chỗ thầy nằm. Hòa đề nghị :
- Mẹ ngồi xuống kia nghỉ một chút. Để con chạy tìm một mình, chừng nào có con kêu mẹ chớ mẹ đi theo con mệt lắm.
Hòa trao giỏ cam lại cho mẹ để rảnh tay, dễ tìm chỗ thầy nằm. Hòa đề nghị :
- Mẹ ngồi xuống kia nghỉ một chút. Để con chạy tìm một mình, chừng nào có con kêu mẹ chớ mẹ đi theo con mệt lắm.
Mẹ Hòa
bằng lòng liền. Bà ngồi xuống một cái ghế bằng xi măng, dõi mắt theo bóng con
tít đằng xa : Hòa nhanh nhẹn như một con sóc nhỏ trên cành cây, chỗ nào nó cũng
thậm thọt chui vào rồi chỉ trong một nháy mắt là chui ra. Mỗi bận như thế, Hòa
lại quay về hướng mẹ ngồi, lắc đầu ra hiệu rằng chưa tìm thấy và chỉ tay về
phía trước, chỗ nó sắp vô tìm nữa.
Mẹ nó
ngồi yên, lặng lẽ nhìn quanh, nhưng kỳ thực bà không để ý đến một cái gì cả, vì
bà mải suy nghĩ bâng quơ… Cuộc đời kỳ quái thực, nhiều cái lạ lùng thực. Ai có
ngờ được vậy hay không ? Một người ghét sống nơi thành phố như chồng bà mà lại
phải sống nơi thành phố. Một người hiền lành, tốt bụng như chồng bà mà lại
chết, chết tức tưởi không thấy mặt vợ con, không có một lời trăn trối cuối
cùng, không một người thân thuộc bên cạnh để vuốt mắt cho… Một người làm cái
nghề đáng quí, đáng trọng nhất trong các nghề -- nghề dạy học – thì lại phải bỏ
học trò mà đi cầm súng và bây giờ bị thương, không biết tính mệnh ra sao ? Cả
bà nữa, cũng là một sự lạ.
Hồi chồng mới chết, bà tưởng mình không thể nào sống thiếu ông, nhưng bây giờ bà hiểu rằng người ta không dễ chết như mình nghĩ. Mất một người bạn đời cùng mình chia sớt niềm vui, nỗi khổ thì quả là một sự mất mát to lớn khó bù đắp và không mong gì thay thế được. Nhưng mà người còn lại phải đảm trách lấy bổn phận, không thể nằm khóc mà xong. Phải biết gạt nước mắt, phải lo cho con đủ cơm no, áo ấm. Bây giờ đây tuy không nguôi ngoai hẳn song bà chỉ còn khóc thầm khóc vụng trong đêm. Trong đêm, bà mới rảnh để ôn lại, để nhớ đến chồng. Tội nghiệp ông, cả đời vất vả, lúc nào cũng cho cuộc sống nơi đô thị là tạm bợ, sống qua ngày, chờ đợi lúc yên ổn để được trở về quê cũ cùng với vườn rau, đám ruộng. Chưa đạt được ước vọng đơn giản đó ông đã nằm xuống, vĩnh viễn xa lìa ruộng đất, ruộng đất mà ông nặng lòng yêu như đối với vợ con.
Nhờ ơn trên thế nào rồi một ngày sắp tới đây bà cũng cố đem ông về quê bà mới yên lòng. Phải ! Bà không thể để ông nằm lại một mình với những người xa lạ xung quanh. Người chết cũng phải gần họ hàng, thân thuộc của mình chứ ? Bà hơi lúng túng : mang ông về đâu ? Quê mình hay quê ông ? Mà thôi, hẳn khoan nghĩ đến, sẽ bàn cùng lũ nhỏ sau. Mà sao mình lại lẩn thẩn như vậy ? Quê nào chả là quê ? Ngày còn sống ông không từng nói đó hay sao : đất quê nào mà cây trái không ngon, ruộng vườn không xanh tốt, người quê nào lại không cởi mở, thật thà ? Hơn nhau là ở cái tài canh tác chứ ? Là ở sự đối xử với nhau chứ ? Phải rồi…
Hồi chồng mới chết, bà tưởng mình không thể nào sống thiếu ông, nhưng bây giờ bà hiểu rằng người ta không dễ chết như mình nghĩ. Mất một người bạn đời cùng mình chia sớt niềm vui, nỗi khổ thì quả là một sự mất mát to lớn khó bù đắp và không mong gì thay thế được. Nhưng mà người còn lại phải đảm trách lấy bổn phận, không thể nằm khóc mà xong. Phải biết gạt nước mắt, phải lo cho con đủ cơm no, áo ấm. Bây giờ đây tuy không nguôi ngoai hẳn song bà chỉ còn khóc thầm khóc vụng trong đêm. Trong đêm, bà mới rảnh để ôn lại, để nhớ đến chồng. Tội nghiệp ông, cả đời vất vả, lúc nào cũng cho cuộc sống nơi đô thị là tạm bợ, sống qua ngày, chờ đợi lúc yên ổn để được trở về quê cũ cùng với vườn rau, đám ruộng. Chưa đạt được ước vọng đơn giản đó ông đã nằm xuống, vĩnh viễn xa lìa ruộng đất, ruộng đất mà ông nặng lòng yêu như đối với vợ con.
Nhờ ơn trên thế nào rồi một ngày sắp tới đây bà cũng cố đem ông về quê bà mới yên lòng. Phải ! Bà không thể để ông nằm lại một mình với những người xa lạ xung quanh. Người chết cũng phải gần họ hàng, thân thuộc của mình chứ ? Bà hơi lúng túng : mang ông về đâu ? Quê mình hay quê ông ? Mà thôi, hẳn khoan nghĩ đến, sẽ bàn cùng lũ nhỏ sau. Mà sao mình lại lẩn thẩn như vậy ? Quê nào chả là quê ? Ngày còn sống ông không từng nói đó hay sao : đất quê nào mà cây trái không ngon, ruộng vườn không xanh tốt, người quê nào lại không cởi mở, thật thà ? Hơn nhau là ở cái tài canh tác chứ ? Là ở sự đối xử với nhau chứ ? Phải rồi…
Mông lung
suy nghĩ, mẹ Hòa không để ý đến con trai, nên Hòa ra hiệu mãi mà mẹ không thấy,
nó phải chạy lại. Một tay đưa lên ngực nén nhịp thở hào hển, một tay xoa xoa
sau lưng cho mồ hôi thấm vào áo, Hòa nói như reo lên :
- Con tìm
ra rồi, mau mẹ !
Mẹ Hòa
bật dậy, tay khư khư cái giỏ cam, nối bước theo sát lưng con. Ngoằn ngoèo quanh
lộn cả đoạn dài nữa, hai mẹ con đặt chân lên bậc thềm một trại trong vô số trại
thương binh, cất đều theo một kiểu, vuông vuông dài dài y như những cái bao
diêm sắp quanh trên cái bàn trải khăn xanh là cái thảm cỏ và một ít cây cối vây
quanh khu bệnh viện.
Hai mẹ con vào phòng rồi mà mẹ Hòa vẫn không thấy bóng dáng thầy Lân. Bà hơi nghi ngờ sự hiểu biết của con, nóng nảy hỏi :
Hai mẹ con vào phòng rồi mà mẹ Hòa vẫn không thấy bóng dáng thầy Lân. Bà hơi nghi ngờ sự hiểu biết của con, nóng nảy hỏi :
- Đâu ?
Thầy đâu ? Sao con nói…
- Thì con
thấy tên thầy ghi kia rõ ràng mà. Mẹ để tìm chớ, để người ta nằm, nói to dữ vậy
?
Phòng này
rộng, vừa rộng vừa sâu. Chắc là phòng dành riêng cho những thương binh nặng ?
Hòa thoáng rùng mình khi nghĩ thế. Mùi thuốc, mùi hôi, mùi… nhà thương xông tận
mũi Hòa. Bốn dãy dài giường sắt trắng, đặt thẳng song song nhau và trên mỗi
giường đều có bệnh nhân.
Hình như
họ đều ngủ cả. Hòa thoáng nhớ khi cha còn sống, ông thường nói : “Nữa tao mà có
đau ốm thì mẹ con bay đừng đem tao vô nhà thương, tao ớn lắm. Thà tao chết ở
nhà. Trong đó hôi không chịu nổi !” Thật ông nói đúng quá. Hòa cũng vậy, Hòa
không chịu nổi. Nó muốn tháo lui ngay, song lòng thương thầy mạnh hơn nên nó
phải cố gắng.
Quanh lộn mãi vẫn không tìm ra thầy, Hòa lại phải chịu khó cúi xuống nhìn tận mặt từng người một -- thật là một việc quá sức đối với Hòa – Có người thức giấc lầu bầu chửi thề nhưng Hòa vẫn phải nhỏ nhẹ xin lỗi và nói cái lý do tại sao mình vô đây làm phiền họ.
Quanh lộn mãi vẫn không tìm ra thầy, Hòa lại phải chịu khó cúi xuống nhìn tận mặt từng người một -- thật là một việc quá sức đối với Hòa – Có người thức giấc lầu bầu chửi thề nhưng Hòa vẫn phải nhỏ nhẹ xin lỗi và nói cái lý do tại sao mình vô đây làm phiền họ.
Dù sao,
Hòa không phiền trách họ, nom người nào cũng ốm yếu, làm sao họ có thể vui vẻ
nổi ?
Được một
lát, Hòa đâm nản, vì đã đi suốt cả hai dãy giường mà không tìm được thầy mình.
Có một bận Hòa xuýt reo lên vì cái anh tre trẻ trong góc phòng sao mà giống
thầy thế, nhất là trông nghiêng, song khi nhìn thật kỹ, thật gần, Hòa biết mình
lầm, anh ta quá trẻ và nét mặt buồn rầu không giống thầy mình chút nào. Không !
Thầy giáo của Hòa vui vẻ, tươi tỉnh hơn nhiều, còn anh này cái mặt cau có lắm.
Trong lúc Hòa lăng quăng tìm kiếm trong này thì mẹ Hòa hãi sợ, dừng lại ngoài kia, bà không dám làm như Hòa. Hòa nhìn sâu bên trong : ánh sáng từ hai cánh cửa lưới mới gắn soi rõ mặt từng người, không một ai là thầy Lân cả.
Trong lúc Hòa lăng quăng tìm kiếm trong này thì mẹ Hòa hãi sợ, dừng lại ngoài kia, bà không dám làm như Hòa. Hòa nhìn sâu bên trong : ánh sáng từ hai cánh cửa lưới mới gắn soi rõ mặt từng người, không một ai là thầy Lân cả.
Hòa quay
ra, nửa mừng nửa lo : mừng vì thầy không có trong số những người bị thương
nặng, lo vì không hiểu thầy đâu.
Chợt thấy
người mang cơm vào cho bệnh nhân, Hòa chận lại hỏi liền. Ông ta dừng chân, cắn
môi suy nghĩ một lát, rồi hỏi lại :
- Mà cậu
tìm Lân nào ? Đây có hai Lân, một Lân mù mắt, cụt tay, một Lân…
Hòa ù cả hai tai, không nghe gì nữa. Trời ơi ! Nếu mà thầy mình mù mắt, cụt tay thì… khổ biết bao nhiêu ? Thà chết như cha còn hơn… Bủn rủn cả tay chân, Hòa đứng lặng không nhích đi được một phân nào. Người kia giục:
Hòa ù cả hai tai, không nghe gì nữa. Trời ơi ! Nếu mà thầy mình mù mắt, cụt tay thì… khổ biết bao nhiêu ? Thà chết như cha còn hơn… Bủn rủn cả tay chân, Hòa đứng lặng không nhích đi được một phân nào. Người kia giục:
- Đó, cứ
qua phòng bên kia, cả hai đều nằm bển. Thế nào cũng có…
Hòa đã
trấn tỉnh lại. Nó hỏi :
- Dạ, sao
tên thì ở bên này mà…
- À ! Tại
người ta chưa kịp đổi lại. Ở đây nhiều việc lắm, người ta không rảnh rang như
nhà cậu đâu.
Hòa vội
vàng cảm ơn ông ta rồi đi theo hướng ông ta chỉ, không quên kéo mẹ theo mình.
Trại này coi bộ khá hơn : Hòa khỏi phải tránh né những cuộn băng, những tấm bông bẩn vương vãi dưới mỗi giường. Bệnh nhân coi khoẻ hơn. Có anh nằm ngửa hát nghêu ngao, bên cạnh có một người đàn bà -- chắc là vợ -- đang cắm cúi pha sữa cho. Một chân duỗi thẳng, một chân co. Bên chân co mất hẳn đi một khúc từ ống quyển trở xuống, còn lại một khúc ngắn non tấc tây từ đầu gối trở xuống.. Khúc còn lại được băng kín, trắng tinh, vuông vức y như phần đầu của chiếc chả giò. Họ không cột mà kẹp đầu mối bằng bốn cái kẹp sắt mỏng, sáng loáng, giữa thẳng, hai đầu kẹp ăn sâu vào cuộn băng, nom gọn và rất khéo. Anh ta đung đưa cái phần một tấc còn lại một cách đều đặn nom kỳ quái quá làm Hòa vừa sợ lại vừa muốn bật cười.
Trại này coi bộ khá hơn : Hòa khỏi phải tránh né những cuộn băng, những tấm bông bẩn vương vãi dưới mỗi giường. Bệnh nhân coi khoẻ hơn. Có anh nằm ngửa hát nghêu ngao, bên cạnh có một người đàn bà -- chắc là vợ -- đang cắm cúi pha sữa cho. Một chân duỗi thẳng, một chân co. Bên chân co mất hẳn đi một khúc từ ống quyển trở xuống, còn lại một khúc ngắn non tấc tây từ đầu gối trở xuống.. Khúc còn lại được băng kín, trắng tinh, vuông vức y như phần đầu của chiếc chả giò. Họ không cột mà kẹp đầu mối bằng bốn cái kẹp sắt mỏng, sáng loáng, giữa thẳng, hai đầu kẹp ăn sâu vào cuộn băng, nom gọn và rất khéo. Anh ta đung đưa cái phần một tấc còn lại một cách đều đặn nom kỳ quái quá làm Hòa vừa sợ lại vừa muốn bật cười.
Một anh
khác nằm thẳng, hai ống chân như một đôi đũa vừa so xong : thẳng băng, đều đặn,
đều cho đến nỗi cả hai khúc bị mất cũng đều tăm tắp ! Cả hai ống chân đều trắng
lốp, sạch sẽ, chắc cũng do một bàn tay khéo léo, lành nghề của người y sĩ đã
băng cho anh bên giường kia ? Anh ta cũng mặc áo xanh của bệnh viện nhưng lại
không mặc quần cùng mầu mà lại mặc cái quần đùi có sọc xanh. Sọc xanh ? Cái
quần bỗng nhắc Hòa nhớ đến bạn mình, Tâm đang nóng lòng chờ đợi lá thư mà Hòa
đã hẹn lần không chịu viết.
Trên đầu mỗi giường bệnh đều có treo một cái giỏ sắt đựng các thức lặt vặt cần dùng và quà cáp của những kẻ đến thăm. Vài tờ báo, cuốn sách, tạp chí vứt bừa ra đâu đó : trên giường, trong giỏ, trên cái kệ nhỏ kê sát bên giường.
Trên đầu mỗi giường bệnh đều có treo một cái giỏ sắt đựng các thức lặt vặt cần dùng và quà cáp của những kẻ đến thăm. Vài tờ báo, cuốn sách, tạp chí vứt bừa ra đâu đó : trên giường, trong giỏ, trên cái kệ nhỏ kê sát bên giường.
Hòa vừa
để ý tìm giường thầy Lân vừa ngó ngoái lại phía sau, mỗi lần quay lại Hòa đều
trông thấy cái chân cụt tận đầu gối của anh thương binh kia ngo ngoe phần còn
lại từ xa nom như một cái đầu của con vật lạ.
Chợt Hòa
kêu lên một tiếng, chùn chân lại : nó vừa chạm phải một bộ mặt hết sức gớm ghê
: một bộ mặt nom không còn hình dạng rõ ràng, một bên mắt sâu hoắm và cái mũi
sụp xuống làm khuôn mặt bằng phẳng như cái dĩa, môi trên và môi dưới đều sưng
vù. Má và trán nám đen, sưng tấy lên, ri rỉ nước vàng.
Tiếng kêu
của Hòa bật lên trong lúc thảng thốt, không thành lời gì rõ rệt nhưng cũng đủ
làm bệnh nhân trên các giường giật mình quay lại phía Hòa. Vài tiếng chửi thề
nổi lên cùng một lượt với tiếng rên nho nhỏ. Trong lúc Hòa đang bối rối khổ sở
chưa biết làm cách nào để thoát khỏi tình trạng khó chịu này thì ông già đưa
cơm cho bệnh nhân trờ tới, ông ta cao giọng nói với Hòa :
- Đó, ông
Lân đó, nhìn ra chưa ? Đúng không ?
Hòa nghẹn
cứng cổ, không trả lời ông ta được câu nào. Nó bàng hoàng, nhắm chặt hai mắt
lại, cố trấn tỉnh nhưng tinh thần tán loạn. Thầy Lân đây ? Làm sao nó biết chắc
được ? Có lẽ mặt thầy bị biến dạng vì thương tích… Tai Hòa như văng vẳng bốn
tiếng “mù mắt cụt tay” Hòa lại mở mắt ra nhìn xuống phần thân thể nạn nhân
trước mặt.
Phải :
ông ta cụt tay thật. Hòa hoàn toàn tuyệt vọng, nó vội lùi ra. Bỗng trí khôn của
Hòa nhắc nó là còn một người trùng tên với thầy nó nữa, chắc gì… ? Lần này mắt
Hòa chạm phải bốn chữ “trọng nghĩa khinh tài” bằng mực xanh xăm trên cánh tay
lành của nạn nhân. Hoà thở phào một cái mừng quá đỗi nhưng cố giữ không kêu
lên, nó không muốn nghe chửi thề như lúc nãy. Hòa vững lòng quá !
- Hòa !
Lại đây ! Con tìm thầy hẳn ?
Nghe
tiếng kêu, Hòa quay lại. Nó mừng đến ríu cả lưỡi khi nhận ra khuôn mặt quen
thuộc cùng nụ cười hiền hậu, ấm áp của thầy Lân. Hòa muốn kêu mẹ mà nó không
kêu được, thầy Lân cũng mừng không kém nhưng thầy tỉnh táo hơn :
- Con đi
một mình hay đi với ai ?
Bấy giờ,
Hòa nức lên khóc, chạy lại bên thầy toan sà vào lòng thầy như năm ngoái hôm
chôn cha vậy, song xung quanh đông quá và ai cũng như chú ý đến nó nên Hòa cố
sức ngăn giữ tình cảm mình lại, không cho bộc lộ quá rõ ràng.
Nó cắn môi, chớp mau vài cái cho nước mắt thoát ra, rụng xuống. Nó lẳng lặng chỉ tay
Nó cắn môi, chớp mau vài cái cho nước mắt thoát ra, rụng xuống. Nó lẳng lặng chỉ tay
ra cửa để
thầy hiểu rằng có mẹ nó cùng đi. Thầy Lân nhìn theo tay Hòa chỉ, thì vừa vặn mẹ
Hòa lấp ló ngoài cửa nhìn vô. Bà kêu lên “Trời ơi !” hai tiếng rồi đứng sững
giây lâu. Nụ cười trên môi bà méo xệch như mếu. Hòa nhanh nhẩu chạy ra đỡ giỏ
cam trên tay mẹ.
- Cảm ơn bác Hai. Trời ơi ! Xa xôi nắng nôi như vầy mà bác chịu khó tìm vô thăm là quí lắm rồi, còn bày đặt mua sắm làm chi nữa ?
- Cảm ơn bác Hai. Trời ơi ! Xa xôi nắng nôi như vầy mà bác chịu khó tìm vô thăm là quí lắm rồi, còn bày đặt mua sắm làm chi nữa ?
Thầy nhìn
giỏ cam trên tay học trò mình, nói. Mẹ Hòa đã qua cơn xúc động lúc đầu, giọng
bà nghèn nghẹn :
- Thưa
thầy, nghe cô Tư qua cho hay là thầy bị… tôi lật đật… dạ, thưa thầy đâu có là
bao nhiêu ? Cái ơn của thầy…
Chắc là
mẹ Hòa muốn nhắc đến công thầy dạy dỗ Hòa ? Hay là bà muốn nói đến chuyện thầy
chạy tới chạy lui, tất tả xin những thứ giấy tờ, phép tắc khi cha Hòa chết ?
Hòa không biết được vì tới đó, mẹ Hòa ngừng lại, khóc ròng.
- Kìa bác
Hai ! Ơn nghĩa chi đâu mà mỗi lần thấy tôi là bác nhắc hoài ? Giúp đỡ nhau là
thường chớ.
Và như để
câu chuyện được hồn nhiên, khỏi vướng víu vào vụ ơn nghĩa, thầy Lân quay sang
hỏi Hòa :
- Sao ?
Năm nay con đậu chớ ?
Hòa đứng
lặng, đầu cúi gầm xuống. Trời ơi ! Thầy mà biết thì sẽ… ra sao ? Mẹ Hòa nghe
thầy hỏi, liền chộp lấy, kể lể -- vì còn có ai đáng cho bà kể lể đâu ? Ai là
người quan tâm đến chuyện đậu hỏng của con bà hơn là thầy Lân nữa ?
- Thôi,
thầy ơi ! Nó bây giờ không như hồi thầy ở nhà đâu. Nó hư rồi :
Tôi đã nói cả trăm lần là phải rán học đặng nữa nhờ tấm thân mà nó có thèm nghe
đâu ? Con cái bây giờ… tôi buồn quá, thầy ơi ! Phần thì…
Hòa
ngượng quá, mẹ nó sao mà kỳ hết sức, ở đâu cũng nói vung lên như ở nhà mình,
không sợ người ta chê cười gì hết.
Một người
nằm cạnh giường thầy Lân, chõ sang, hỏi :
- Ê, học
trò toa đấy hả ?
- Phải,
học trò tôi, anh ạ !
- Sướng
nhỉ ? Đời bây giờ mà còn có người nhớ đến công ơn sư phụ…
Và anh ta
phá lên cười, cười hô hố, hô hố nghe phát ghét. Hòa càng tức tợn.. Nó bỏ mặc mẹ
chuyện trò, lảng ra hiên đứng. Ngoài hiên cũng có bệnh nhân nằm. Một người đang
duỗi dài, trên ngực một cái khay nhôm chia ra nhiều ngăn, ngăn lớn nhất đựng
cơm, ngăn vừa vừa đựng canh, vài ngăn nhỏ hơn nữa thì đựng thức ăn mặn khác. Để
trên ngực làm sao thở được ? Hoà nghĩ bụng. Song khi nhìn kỹ lại, Hòa biết rằng
từ vai xuống gần đến bụng anh ta bị bó trong một khuôn bột cứng còng. Cạnh
giường anh này, có anh nữa đang loay hoay một cách vô vọng, không thể nào với
tới chai nước phía trên đầu. Không kịp nghĩ ngợi lâu hơn, Hòa nhanh chân lại
gần đỡ lấy cái ca bằng nhựa mầu trong tay anh ta, rót nước vào đó, đưa anh.
Bệnh nhân
nhìn Hòa, khe khẽ hai tiếng cảm ơn một cách mệt nhọc, đón ca nước Hòa đưa cho,
xoay mình lại một chút và -- lạ lùng hết sức – anh ta không uống như Hòa tưởng,
chỉ nhúng tay vào đó rồi xoa lên khắp mặt mình. Tội nghiệp… tội nghiệp họ quá !
Họ khổ
quá !....
Bỗng Hòa
chợt nhớ mình chưa kịp quan sát coi thầy bị thương ở chỗ nào, chắc là nhẹ ? Bậy
quá, lúc đầu thì mừng quá không để ý, kế tới mẹ nói oang oang lên làm Hòa tức,
quên luôn. Ấy, Hòa có tính xấu thế đấy : hễ tức mình là không nhớ gì hết. Phải
vô coi mới được.
Hòa thấy
thầy đang cởi áo cho mẹ coi vết thương. Chẳng biết sâu cạn ra sao, chỉ thấy một
miếng ga lớn bằng cả bàn tay xoè ra, có độn bông gòn ở giữa được đắp ngay ngắn
trên vai thầy, chung quanh dán kín bằng băng keo trông như cái khuôn hình. Một
vết thương khác phía dưới sườn, không dán băng keo mà băng quanh bằng vải ga
mỏng quanh lưng, nhìn máu bầm thấm ra ngoài, Hoà đoán biết là vết thương không
nặng lắm.
Mẹ Hòa xuýt xoa khe khẽ :
Mẹ Hòa xuýt xoa khe khẽ :
- Lạy ơn
trên che chở… may quá, không thôi…
- Phải, may quá, bác Hai à !
- Phải, may quá, bác Hai à !
Thầy Lân
nói và gài cúc áo lại như cũ. Mẹ Hòa nhác thấy con, bà du nó lại bên thầy :
-
Lại thăm thầy đi chớ, Hoà ? Ở nhà thì đòi vô, giờ gặp thầy lại
chạy ra ngoài đó làm chi ? Thằng kỳ hết sức là kỳ.
Thầy Lân
đỡ lời :
- Nó
không kỳ đâu, chắc vì bác kể tội nó nên nó… vậy đó. Không sao, tôi biết nó, nó
không phải là đứa hư đâu, bác Hai !
Hòa nghe
mà mát cả ruột gan. Phải, Hòa đâu có đến đỗi… hư ? Mẹ mình ưa nói quá lên ! Hòa
ao ước thầy mình lành, khỏi phải ra mặt trận nữa mà được trở về trường dạy nó,
để ông thầy mới đi lính, phải cách hơn. Nhưng Hòa không tiện nói ra ý mình. Nó
chỉ hỏi :
- Chừng thầy lành, thầy được về phải không thầy ?
- Đâu dễ vậy ? Thầy có bị thương nặng đến tàn phế đâu ? Thầy còn đủ chân tay mà !
- Chừng thầy lành, thầy được về phải không thầy ?
- Đâu dễ vậy ? Thầy có bị thương nặng đến tàn phế đâu ? Thầy còn đủ chân tay mà !
Chừng
nào…
- Thôi,
ai mong chi chuyện đó. Thầy nói vậy không nên.
Mẹ Hòa
ngắt lời thầy Lân. Còn Hòa, tuy không nghe hết câu nói song nó cũng hiểu rồi.
Hòa cũng như mẹ, không mong chuyện đó, cứ nghĩ đến là ngán rồi. Thầy Lân lại
cười ;
- Phải, ai mong chuyện đó, nhưng là tôi nói ví dụ mà, bác Hai.
- Phải, ai mong chuyện đó, nhưng là tôi nói ví dụ mà, bác Hai.
- Cũng
không nên ví dụ như vậy đâu.
Hòa nhìn kỹ thầy mình. So với những người khác, thầy thuộc hạng nhẹ. Da thầy không xanh tái mấy, tuy thầy quả có gầy nhiều. Thầy vẫn vui vẻ, dù có kém đi một chút. Mắt thầy vẫn sáng, vẫn cái nhìn linh hoạt cũ, cái nhìn đủ sức làm ấm lòng hoà mỗi lần có chuyện bị mẹ rầy oan ức ở nhà.
Hòa nhìn kỹ thầy mình. So với những người khác, thầy thuộc hạng nhẹ. Da thầy không xanh tái mấy, tuy thầy quả có gầy nhiều. Thầy vẫn vui vẻ, dù có kém đi một chút. Mắt thầy vẫn sáng, vẫn cái nhìn linh hoạt cũ, cái nhìn đủ sức làm ấm lòng hoà mỗi lần có chuyện bị mẹ rầy oan ức ở nhà.
Hòa buồn
rầu nghĩ rằng những người thương yêu và hiểu mình như cha, như thầy đều lần
lượt xa mình. Mình phải gần đàn bà con gái như mẹ, như chị Mai… đàn bà con gái
cũng tốt, cũng thương yêu nhưng mà họ… hơi bất công. Khi họ tức chuyện gì họ có
thể làm khổ lây người khác, nếu người khác đây nhỏ hơn và dưới
quyền họ như Hòa ! Bằng cớ là hễ chị Mai mà may hư, cắt hỏng cái áo là ngày đó
thế nào chị cũng thấy Hòa rất dễ đánh đòn. Còn mẹ : cái chốt cửa gãy, cái bóng
đèn hư, cái máy kẹt chỉ mà Hòa vô ý lớ quớ gần đó thì Hòa có thể bị đòn như bỡn
!
- Hòa,
thưa thầy rồi về kẻo tối con !
Hòa vội
vàng làm theo lời mẹ. Chục cam đã được mẹ sắp vô trong giỏ trên đầu giường, nom
vàng tươi, óng ả, ngon cả mắt. Hòa cầm cái giỏ không cùng mẹ đi ra.
Gió phe phẩy trên mấy cành cây. Cỏ xanh mướt dưới chân hai mẹ con.
Nắng chiều sắp tàn, không khí dịu lại. Trời quang và mát. Mây trắng nhẹ nhàng trôi về một góc trời, góc mà mẹ Hòa vẫn chỉ tay về, nói “Quê mình ở phía đó” bằng cái giọng bùi ngùi, luyến tiếc.
Gió phe phẩy trên mấy cành cây. Cỏ xanh mướt dưới chân hai mẹ con.
Nắng chiều sắp tàn, không khí dịu lại. Trời quang và mát. Mây trắng nhẹ nhàng trôi về một góc trời, góc mà mẹ Hòa vẫn chỉ tay về, nói “Quê mình ở phía đó” bằng cái giọng bùi ngùi, luyến tiếc.
Chương 05
Ngày tháng dần qua. Thầy Lân lành hẳn vết thương, trở về đơn vị
chiến đấu, mà chuyện đó trong quân y viện họ gọi bằng một cái tên là lạ, hay
hay làm Hòa nhớ mãi không quên, đó là “Xuất Viện”.
Anh Miên thì thỉnh thoảng cũng có về thăm gia đình Hòa. Lúc nào anh
ấy cũng nhớ đến cha Hòa. Anh nhớ từng chi tiết nhỏ, những sở thích của cha Hòa,
từng thói quen, từng lời nói và cả những câu thơ. Có lẽ một phần lớn vì lẽ đó
mà mẹ Hòa rất quí mến anh. Đôi khi mẹ Hòa giữ anh lại ăn cơm. Những bữa đó Miên
vui ra mặt, còn chị Mai thì khác hẳn : chị vùng vằng, vũng vẵng trông thật buồn
cười.
Mẹ biết vậy, nhưng mẹ cứ tỉnh như không. Chừng anh Miên về rồi mẹ
kêu chị Mai ra, bố cho một trận nên thân. Mẹ la chị Mai đủ thứ
: nào là kiêu ngạo, nào là vô lễ, bất lịch sự v.v… rồi bà dịu giọng lại một
chút :
- Con đừng có làm bộ, làm cao. Nó sao mà chê nó ? Nó cũng tay
chân, mặt mũi như người ta, học hành cũng… khá hơn con, nó lại cần cù chí thú
làm ăn. Hay con chê nó nghèo ? Đừng có ham giàu, con ơi ! Đừng tưởng có chồng
giàu mà sướng đâu. Hồi mẹ làm bạn với cha con, nhà còn nghèo hơn bây giờ nữa
kia, mà mẹ có khổ đâu. Lấy chồng, cần nhất là được người biết thương mình, tốt
bụng, chớ kể chi giàu nghèo ? Tiền của nó không ở lâu với ai đâu, đừng có bắt
chước dân thành phố, ham tiền…
Chị Mai lầu bầu trong miệng :
Chị Mai lầu bầu trong miệng :
- Ai thèm ham giàu… mà ghét cái quê …
Mẹ quát lên :
- Mai ! Mày nói cái gì đó ? Nói to lên tao nghe, coi nào ?
Chị Mai hơi hãi, lặng thinh. Bé nhanh nhẩu đoảng :
- Thưa mẹ, chị Mai nói “ai thèm ham giàu mà ghét cái quê” đó mẹ !
Hoà can thiệp :
- Con Bé nói bậy quá ! Con nít hớt lẻo phải không ?
Bé cao giọng lên :
- Em không hớt lẻo, tại mẹ hỏi chớ. Anh Hoà lớn sao mà kêu Bé là
con nít ? Anh cũng con nít mà !
- Hai đứa kia im đi, ra ngoài chơi, để tao nói chuyện coi.
Nói vậy nhưng không đợi hai đứa ra ngoài chơi , mẹ đã quay sang phía chị Mai :
Nói vậy nhưng không đợi hai đứa ra ngoài chơi , mẹ đã quay sang phía chị Mai :
- Mai ! Nói tao nghe mày chê nó chỗ nào ? Sao mà kêu là quê
?
Hòa hơi run, coi bộ chị Mai lâm nguy rồi đây. Hoà
vốn biết tính mẹ, khi nào bà không xưngmẹ , kêu con mà
xưng tao và kêu mày thì là điềm xấu. Điều đó
chứng tỏ lửa giận đã hun đốt nóng bà lên rồi. Coi chừng, không khéo… Hòa muốn
báo động cho chị Mai mà không dám. Mẹ nóng tính không phải chuyện chơi đâu. Nó
liếc sang Mai một cái. Cô chị vẫn bướng bỉnh như không thấy điềm xấu. Cô nhắc
lại lời mình :
- Con đã nói con không có chê gì hết, mà con ghét cái quê !
- Chà, giỏi dữ ! Quê ! Còn mày thành thị, hử ? Rờ sau ót coi : cha
mẹ mày có quê không, mà chê người ta quê ?
- Không phải con chê ảnh nhà quê, quê này là quê khác mà… mẹ kỳ
quá. Mà con không ưng, con còn nhỏ, con ưng ở nhà với mẹ, với em con, chuyện gì
mà lật đật ?
- Tao không lật đật gì ráo. Có điều, tao thấy nó dễ thương, biết
lo làm ăn tử tế. Nó có bụng thương mày, thì tao…
- Mà con không thương, làm sao ?
- Thì thôi. Làm cha mẹ, tao không có ép. Chỉ e mày chê nó rồi lại
thương nhằm đứa chẳng ra gì, lại cực một đời thôi, lúc đó đừng kêu trời trách
đất, nghe con ?
- Con không thương ai hết, để mẹ coi.
- Đừng nói dóc, tao thấy cả trăm đứa nói như mày rồi. Tao nói cho
biết vậy thôi, không ai ép uổng gì. Mà điều không ưng nó thì thôi, đừng có vùng
vằng, làm bộ, người ta chửi con mẹ mày không biết dạy, nghe không ? Phải nhớ
rằng cha mình đã chết trong tay người ta. Không phải hết con gái đâu, ăn ở cho
nết na, đừng có bắt chước…
- Con không thèm bắt chước ai hết. Con làm gì mà không có nết ? Mẹ binh nó quá ! Sao nó dám chửi con ?
- Con không thèm bắt chước ai hết. Con làm gì mà không có nết ? Mẹ binh nó quá ! Sao nó dám chửi con ?
- Người ta lớn đáng anh cả mày mà mày kêu bằng nó hả ? Mai, liệu
hồn, nghe chưa ?
Mẹ nói tới đó thì có bà Năm đến, làm mẹ phải dọn nét mặt hoà nhã để tiếp bà.
Chị Mai thừa dịp, chuồn vào bếp. Hòa ngẫm nghĩ mãi về câu chuyện mới xảy ra.
Mẹ nói tới đó thì có bà Năm đến, làm mẹ phải dọn nét mặt hoà nhã để tiếp bà.
Chị Mai thừa dịp, chuồn vào bếp. Hòa ngẫm nghĩ mãi về câu chuyện mới xảy ra.
***
Kể ra Hòa thấy anh Miên
cũng khá… dễ thương, song dễ thương là một chuyện mà chị Mai làm vợ anh ấy là
chuyện khác, có liên quan đến quyền lợi Hòa nên Hoà hơi ngả về phía chị Mai.
Phải ! Chị Mai nói đúng :
chị còn nhỏ, đi đâu lật đật ? Bây giờ mẹ gả chị cho anh Miên thì mệt Hòa quá.
Nói chi xa, chỉ nghĩ đến nông nổi cái quần đứt chỉ, cái áo rách vai mà không có
chị Mai, Hòa biết cậy nhờ ai ?
Tháng trước chị đau ốm qua
loa chi đó, nằm có mấy ngày mà Hòa mệt đừ đi. Mẹ bận buôn bán ngoài chợ suốt
ngày, Hòa phải kiêm nhiệm trăm thứ chuyện : nấu cơm, kho cá, giặt áo, giặt
khăn, tắm rửa cho em Bé nữa. Cơm nước xong còn lo rửa bát, quét nhà… Dĩ nhiên,
nếu Hòa không làm, mẹ cũng chẳng la rầy chi, mẹ sẽ cặm cụi làm lấy, nhưng Hòa
không nỡ để mẹ vất vả như vậy. Tội nghiệp mẹ và chướng mắt lắm.
Nhà trường há không dạy người ta phải giữ tròn hiếu đạo đó sao ?
Từ khi đi thăm thầy Lân về, coi bộ Hoà phục thiện, giữ gìn tư cách hơn trước.
Tuy thầy không còn trở về trường dạy lại, song thỉnh thoảng cùng mẹ vô thăm thầy, Hòa được gần thầy và nghe thầy giảng giải nhiều điều hay, lẽ phải.
Những điều này có khi Hòa không hiểu hết, song Hòa cảm thấy nó đúng, nó hay, có lẽ phần lớn nhờ ở giọng nói truyền cảm và cái nhìn âu yếm của thầy Lân làm Hòa xúc động sâu xa. Thầy làm cho Hòa có cái hãnh diện mình là trang giấy trắng mới tinh khôi, thơm ngát, nguyên vẹn, rất quí báu đừng bao giờ để cho giây bẩn lấm lem, rách nát. Phải giữ gìn thận trọng để xứng đáng là học trò của thầy và con của một người cha tốt như cha Hòa. Dù bây giờ ông không còn nữa, không bao giờ Hòa được thấy ông nhưng mà trong cõi vô hình, một cái gì nhỏ nhít đến đâu ông cũng biết và ông sẽ cho là nhục nhã, là đáng buồn nếu đứa con trai ông yêu quí, đứa con trai độc nhất của ông không ở trong đường ngay nẻo thẳng như ông từng ao ước lúc sinh thời.
Một đôi khi, Hòa thấy thấm mệt vì cứ phải giữ mình trên con đường người lớn vạch ra sẵn đó. Song được cái, sau mỗi lần như vậy, Hòa bất chợt nhớ đến cái chết đau đớn của cha, đến lòng kỳ vọng của cha cũng như nhớ đến đôi mắt trìu mến, âu yếm và sự khuyến khích của thầy Lân, nhờ thế, Hòa lại dần dần phục hồi nghị lực và can đảm.
Nhưng mà, can đảm của Hòa đây nó chỉ có chừng mực, có giới hạn nào thôi, chứ không có nghĩa là òa đủ sức kiêm nhiệm chức vụ của người chị gái. Hòa cố để chống lại sự cám dỗ : trước và sau giờ học không la cà ngoài phố, ngoài mấy rạp ciné thường trực, không thèm mua những cuốn sách nhảm nhí có bìa hoe hoét, sặc sỡ, nhất là không bao giờ cho phép mình cầm đến cuốn kiếm hiệp cho thuê… Thế cũng là quá lắm rồi, đòi hỏi gì thêm e rằng Hòa kiệt sức mất thôi, trời ạ !
Nhà trường há không dạy người ta phải giữ tròn hiếu đạo đó sao ?
Từ khi đi thăm thầy Lân về, coi bộ Hoà phục thiện, giữ gìn tư cách hơn trước.
Tuy thầy không còn trở về trường dạy lại, song thỉnh thoảng cùng mẹ vô thăm thầy, Hòa được gần thầy và nghe thầy giảng giải nhiều điều hay, lẽ phải.
Những điều này có khi Hòa không hiểu hết, song Hòa cảm thấy nó đúng, nó hay, có lẽ phần lớn nhờ ở giọng nói truyền cảm và cái nhìn âu yếm của thầy Lân làm Hòa xúc động sâu xa. Thầy làm cho Hòa có cái hãnh diện mình là trang giấy trắng mới tinh khôi, thơm ngát, nguyên vẹn, rất quí báu đừng bao giờ để cho giây bẩn lấm lem, rách nát. Phải giữ gìn thận trọng để xứng đáng là học trò của thầy và con của một người cha tốt như cha Hòa. Dù bây giờ ông không còn nữa, không bao giờ Hòa được thấy ông nhưng mà trong cõi vô hình, một cái gì nhỏ nhít đến đâu ông cũng biết và ông sẽ cho là nhục nhã, là đáng buồn nếu đứa con trai ông yêu quí, đứa con trai độc nhất của ông không ở trong đường ngay nẻo thẳng như ông từng ao ước lúc sinh thời.
Một đôi khi, Hòa thấy thấm mệt vì cứ phải giữ mình trên con đường người lớn vạch ra sẵn đó. Song được cái, sau mỗi lần như vậy, Hòa bất chợt nhớ đến cái chết đau đớn của cha, đến lòng kỳ vọng của cha cũng như nhớ đến đôi mắt trìu mến, âu yếm và sự khuyến khích của thầy Lân, nhờ thế, Hòa lại dần dần phục hồi nghị lực và can đảm.
Nhưng mà, can đảm của Hòa đây nó chỉ có chừng mực, có giới hạn nào thôi, chứ không có nghĩa là òa đủ sức kiêm nhiệm chức vụ của người chị gái. Hòa cố để chống lại sự cám dỗ : trước và sau giờ học không la cà ngoài phố, ngoài mấy rạp ciné thường trực, không thèm mua những cuốn sách nhảm nhí có bìa hoe hoét, sặc sỡ, nhất là không bao giờ cho phép mình cầm đến cuốn kiếm hiệp cho thuê… Thế cũng là quá lắm rồi, đòi hỏi gì thêm e rằng Hòa kiệt sức mất thôi, trời ạ !
Vậy thì anh Miên, anh ấy
cũng đừng chấp chới có cái tà ý cuỗm chị Mai của Hòa đi mất,
không được đấy nhé ! Cảm tình với anh ấy là một chuyện, nhưng cảm tình đến nỗi
không có biện pháp gì ngăn chặn ý muốn kia, đến nỗi để mất chị đi thì không,
không bao giờ.
Vì lẽ ấy, Hòa đã một lần
biên lá thư đúng theo ý chị Mai - có điều Hoà thêm thắt, sửa chữa lời văn đôi
chút - từ chối mối tình của anh Miên.
Nói cho đúng với sự thật,
ban đầu Hòa cũng không thích làm chi cái công việc của một tên thư ký không
lương. Vả lại, chị Mai cũng có đi học, biết chữ nghĩa đàng hoàng chớ phải dốt
nát chi sao ? Sao lại nhờ Hòa ? Nhưng khi Hòa vừa mở miệng chưa nói hết câu thì
chị Mai đã gắt lên nho nhỏ (gắt to sợ mẹ nghe) thế này đây :
- À, Hoòa làm ngặt chị phải không ? Một đời chị đã nhờ Hòa việc gì chưa ? Bây giờ là lần đầu… Ích kỷ phải không ? Được rồi, được ! Chị không nhờ Hòa nữa đâu. Từ này đừng có chị em với chị nữa, nghe không ? Đừng có mỗi chút mỗi kêu “chị Mai chị Mai” nữa, nghe không ?
- À, Hoòa làm ngặt chị phải không ? Một đời chị đã nhờ Hòa việc gì chưa ? Bây giờ là lần đầu… Ích kỷ phải không ? Được rồi, được ! Chị không nhờ Hòa nữa đâu. Từ này đừng có chị em với chị nữa, nghe không ? Đừng có mỗi chút mỗi kêu “chị Mai chị Mai” nữa, nghe không ?
Hòa chưa kịp phản ứng ra
sao, chị đã thấp giọng xuống, chì chiết nghe thật khó chịu :
- Ở đó mà chực tao làm mọi cho, giặt áo, vá quần, mua mũ… thay bao gối…
- Ở đó mà chực tao làm mọi cho, giặt áo, vá quần, mua mũ… thay bao gối…
Hòa cáu lên, nói không suy
nghĩ :
- Thôi đi ! Làm chị mà ưa
kể lể…
- Ai thèm kể lể với hạng
mày ? Là tao nói cho biết vậy đó, hiểu không ? Từ này có thân thì lo lấy, chớ
tao khỏi đi…
Hoà lạnh mình khi nghĩ đến
sự trả thù của người chị cả ! Không, Hòa ngán lắm, sợ lắm. Lời đe doạ đó không
phải là lời đe doạ suông đâu. Mà mình cũng kỳ - Hòa tự trách mình – khó nhọc gì
cái thơ mà không viết phăng cho chị ấy ? Có khó hơn là làm bài luận đâu ? Huống
chi, chuyện đó cũng nằm trong ý muốn của mình mà ! Chọc giận chị ấy làm gì nhỉ
?
Hòa vội vàng cười làm lành
:
- Em nói chơi chút mà, chưa
gì chị đã giận rồi. Chừng nào viết đây ? Viết sao đây, chị nói đi, em viết liền
đây !
Tuy đã hài lòng nhưng Mai
còn vờ chưa nguôi giận :
- Thôi ! Thôi, tôi không
nhờ ai hết, khỏi ! Cảm ơn !
- Trời ơi ! Chị giận em
thiệt sao ? Em đã nói em nói chơi mà, chị em mà…
Mai cốc lên đầu em một cái
:
- Mày là con yêu…
- Thằng yêu chớ ! Em là con
trai mà, con yêu sao được ?
Hòa chữa lại. Hai chị em
cùng cười. Những tiếng cười ròn rã mà kể từ cha chết rất ít khi có dịp vang lên
trong nhà.
Thằng em trai lo soạn giấy
bút. Cô chị ngồi lại, tay bưng má, dáng bộ đăm chiêu suy nghĩ. Ấy là cô đang
ngẫm nghĩ để đọc lên cho em mình viết lá thư, lá thư tình thứ nhất trong đời,
tuy là lá thư tuyệt tình chứ không phải tỏ tình, song dù sao nó cũng là lá thư
tình, cô cần thận trọng. Mẹ cô vẫn nhắc lại lời ông ngoại : bút sa gà
chết kia mà! Đâu phải chuyện lơ mơ.
Coi vậy mà khó hơn cô
tưởng, đã vậy thằng em “con yêu” không chịu thông cảm nỗi khó khăn của chị
mình, nó không ngồi yên chờ mà cứ nhấp nha, nhấp nhỏm, giục :
- Rồi chưa ? Đọc lên em viết, làm gì mà ngồi sững hoài vậy ?
- Rồi chưa ? Đọc lên em viết, làm gì mà ngồi sững hoài vậy ?
Chị Mai lại dỗi :
- Làm gì hối dữ vậy ? Mày
không viết thì thôi. Đi chơi đi ! Tao không cần. Tao viết lấy cũng được.
Thật là quá sức, Hòa không
nhịn được nữa :
- Vậy sao chị không viết đi
mà biểu người ta ? Rồi còn làm bộ ?
- À ! Thằng này bây giờ hỗn
quá rồi. Nói ai làm bộ ? Mày khinh tao không biết viết chắc ? Để coi tao có cầu
lụy mày nữa không ?
Cô chị nói và giằng cây bút
trong tay em, cắm cúi viết. Hòa lùi lại, nhưng vẫn không đi chơi đi như
chị bảo, nó liếc mắt một cái coi thử chị viết ra sao.
Ban đầu, Hòa hí hửng vì thấy
chị Mai sử dụng cây bút một cách ngượng nghịu, khó khăn : chữ cô không đều
hàng, chữ trồi lên, chữ trụt xuống, nom như một lũ nhỏ lấc cấc không tề chỉnh
chi hết, lại sai chính tả nhiều quá, ngứa con mắt làm sao ấy, không chịu nổi.
Hòa hết sức ngạc nhiên :
sao chị mình cầm cây kim bé tí tẹo thì có vẻ thành thạo quá. Tay chị thoăn
thoắt, mũi lên, mũi xuống, mũi nào cũng đều tăm tắp còn khi cầm bút thì tệ vậy
? Mà cây bút nhỏ bé gì cho cam, nó lớn gấp trăm, không, gấp ngàn lần cây kim ấy
chớ !
Mới sáu hàng mà Mai đã có
vẻ… mệt : mồ hôi dâm dấp ướt cả trán. Hòa thương hại chị, dịch lại gần một
chút, nhỏ nhẹ :
- Đưa em viết dùm cho.
- Kệ cha tao, tao đã nói
không cần mà.
Mai trả lời em giọng gắt
gỏng, cụt lủn rồi mím môi, mắm miệng, hí hoáy, tiếp tục viết cho xong lá thư.
Hòa hầm hầm đứng dậy, đi
thẳng. Đàn bà con gái không biết phục thiện. Mà lại làm bộ quá, khó ưa thật !
***
Hai ngày tiếp, hai chị em lầm lì nét mặt, không ai nói với ai một tiếng. Cho đến nỗi mẹ Hòa cũng để ý, bà hỏi :
- Hai chị em bây làm sao vậy ? Ngó thấy bây tao muốn no luôn ! Cái
gì vậy ? Nói ra coi ?
Hai chị em vẫn im lặng, lầm lì. Mẹ lại nói :
Hai chị em vẫn im lặng, lầm lì. Mẹ lại nói :
- Có chuyện gì thì cứ nói ra. Dầu gì đi nữa tụi bay cũng là chị em
mà ! Tao ghét cái điệu bộ đó lắm, bỏ đi ! Chị em phải thương nhau chớ.
Vẫn lặng im. Nhưng thừa một lúc mẹ mải nói gì với Bé, Mai khiêu
khích em trai bằng một câu rất ác , chỉ vừa đủ lọt tai Hòa :
- Đó, mẹ hỏi đó kìa, khai ra ! Lập công đi !
Hòa giận run, nghẹn ngào không thốt được một tiếng. Phải chị Mai
nhỏ như em Bé, Hòa đã tát cho vài cái mới hả. Nhưng đâu được, Mai là chị. Luật
lệ trong nhà này không cho phép kẻ nhỏ áp dụng võ lực với người lớn. Phải dùng
văn chương. Khốn nỗi, tuy cũng là tay văn chương có hạng ở nhà trường, Hòa lại
có thói xấu là khi tức giận thì nguồn văn biến mất nên nghĩ mãi vẫn không ra
một câu cho hay ho, sâu sắc mà trả đũa chị mình.
- Đồ hèn, con gái hèn !
- Đồ hèn, con gái hèn !
Hòa mím môi phun đại một câu gồm năm tiếng ngắn, cũng chỉ vừa lọt
tai chị mà thôi. Mai cáu lắm, tuy vậy, cô chị không nói gì, chỉ quắc mắt nhìn
em, cái nhìn như ngầm dọa :
- Được rồi, mày sẽ biết tao !
Thằng em không phải tay vừa, nó vênh mặt lên nhưng không nhìn chị,
vì mắt Mai sắc lắm, dữ lắm không mong gì áp đảo chị bằng mắt được. Hòa tìm ra
cách khác, Hòa nói với em gái, ỡm ờ như một lời nói chơi, song là một lời nhắn…
đầy khiêu khích :
- Đồ con gái hay làm bộ, hay ỷ thế, tao không ngán mày đâu.
Nghe anh gọi mình bằng mày, Bé liền dẩu miệng, phản đối :
Nghe anh gọi mình bằng mày, Bé liền dẩu miệng, phản đối :
- Anh Hòa không được kêu em Bé bằng mày, anh Hòa phải anh
em với em Bé chớ !
Đang giận chị Mai, tai Hòa ù sẵn, nên Bé nói tiếng chớ mà Hoà lại nghe ra là chó . Cơn giận được dịp bùng lên : Hòa nghiến răng tát em hai cái liền, miệng nói :
Đang giận chị Mai, tai Hòa ù sẵn, nên Bé nói tiếng chớ mà Hoà lại nghe ra là chó . Cơn giận được dịp bùng lên : Hòa nghiến răng tát em hai cái liền, miệng nói :
- À, mày hỗn hả ? Dám nói anh là chó hả, coi đây !...
Bé oà khóc to.. Mẹ nhìn má con út đỏ bừng, in dấu bàn tay anh, mẹ tức
lắm. Mẹ quát ;
- Thằng Hòa kia ! Mày thua đâu mà gỡ em là sao ? Nó can phạm gì đến mày ? Nó nói cái gì mà mày đánh nó ? Nó có nói mày chó đâu ? Mày điếc phải không ?
- Thằng Hòa kia ! Mày thua đâu mà gỡ em là sao ? Nó can phạm gì đến mày ? Nó nói cái gì mà mày đánh nó ? Nó có nói mày chó đâu ? Mày điếc phải không ?
- Hu, hu, hu… con nói anh Hòa phải anh em với em Bé mà… hu hu…
Để cho yên, mẹ phát vào mông Hòa hai cái tiếp và nói :
- Này, bỏ thói ăn hiếp em, nghe chưa ? Lần sau mẹ đánh cho năm roi
chớ không phải phát sơ sơ vầy đâu, nghe chưa ?
Mai buông đũa đứng lên quay phía khác, cười một mình, nhưng Hòa
trông thấy, nó càng tức lồng lên. “Được rồi, lát nữa mẹ lên chùa rồi biết”.
Nói vậy, nhưng lúc mẹ dắt Bé đi rồi, nhà còn hai chị em, Mai cặm
cụi may áo cho Bé, Hòa lại nguôi giận. Nó thấy hối vì đã mắng chị là đồ hèn.
Đáng lẽ, Hòa chỉ nên nói thế này :
- Ta không phải hạng tiểu nhân đâu.
Phải ! Nói vậy nghe có vẻ hay ho, lịch sự biết bao nhiêu ? Mà chị
Mai nghe, chỉ còn nể mình nữa là khác. Ai lại nói nặng chỉ như vậy bao giờ, chỉ
là chị mình mà !
Mai ngồi nghiêng, chăm chú làm việc. Cô không biết em trai đang
ngắm trộm mình. Mũi kim trong tay cô thoăn thoắt xuống lên, qua lại đều đều
theo một nhịp điệu riêng, trông hay quá !
Mái tóc dài, xoã xuống hai vai, óng ả, mềm mại, vài sợi loà xoà
buông rũ, che khuất đi một bên tai, làm tối nửa khuôn mặt cô và càng làm cô có
vẻ đẹp mơ màng, huyền diệu làm sao !
Vầng trán phẳng, đôi mày thanh, mũi thẳng, không cao lắm, đều đặn
trên chiếc miệng nhỏ xinh xinh, môi cô hồng nhạt và răng trắng bóng. Mai có vẻ
hãnh diện về hai hàm răng của mình và cô có quyền săn sóc hai hàm răng một cách
tỉ mỉ, đặc biệt là không bị mẹ mắng bao giờ. Trái lại, mẹ không bằng lòng cho
cô trang điểm… một tị. Mẹ nói :
- Không có gì quí bằng sự tự nhiên. Tô chuốt vô làm chi, giả tạo…
Đừng bắt chước người thành phố phấn son loè loẹt, hư nước da đi. Coi mẹ đây, mẹ
không ưa trò giả dối. Trời sinh sao để vậy, hay hơn.
Ban đầu, Mai hơi phản đối, nhưng bây giờ thì cô nghe lời mẹ rồi.
Vì mấy lần đi giao hàng cho cô Liễu trước nhà, đến lúc sáng sớm, cô ta chưa kịp
trang điểm, trông cô xấu tệ, đến nỗi Mai suýt không nhận ra : da cô tái nhợt,
môi thì thâm tím, trông thật khó coi.
Hòa không có ý kiến gì về việc đó. Dù chị Mai có trang điểm hay không chị vẫn đẹp, vẫn là chị của Hòa. Điều làm Hòa bực mình là mỗi bận hai chị em đi đâu mà nghe có người khen Mai và hỏi : “Chừng nào có chồng ?” Bực nhất là khi có mấy anh tre trẻ theo kiếm chuyện làm quen. Hòa sợ và… khinh nữa. Hòa không ưa hạng con trai như thế. Cái gì mà thấy con gái là sà tới như ruồi thấy mật ? Hòa vốn không ưa con gái đàn bà, họ lắm chuyện, họ khó chịu, họ nhiều lời (trừ mẹ với chị Mai ra) Hòa cảm tình đặc biệt với con trai nhưng Hòa ghét cay ghét đắng những người con trai nào ngấp nghé chị mình. Hòa mà lớn lên Hòa sẽ không bao giờ giống mấy người đó. Lại định làm quen, lui tới như kiểu anh Miên hẳn ? Chắc thế ? Đừng hòng : có Hòa đây, Hòa nhất định cản cho đến cùng, chị Mai của Hìa ! Đừng tưởng dễ đâu…
Hòa không có ý kiến gì về việc đó. Dù chị Mai có trang điểm hay không chị vẫn đẹp, vẫn là chị của Hòa. Điều làm Hòa bực mình là mỗi bận hai chị em đi đâu mà nghe có người khen Mai và hỏi : “Chừng nào có chồng ?” Bực nhất là khi có mấy anh tre trẻ theo kiếm chuyện làm quen. Hòa sợ và… khinh nữa. Hòa không ưa hạng con trai như thế. Cái gì mà thấy con gái là sà tới như ruồi thấy mật ? Hòa vốn không ưa con gái đàn bà, họ lắm chuyện, họ khó chịu, họ nhiều lời (trừ mẹ với chị Mai ra) Hòa cảm tình đặc biệt với con trai nhưng Hòa ghét cay ghét đắng những người con trai nào ngấp nghé chị mình. Hòa mà lớn lên Hòa sẽ không bao giờ giống mấy người đó. Lại định làm quen, lui tới như kiểu anh Miên hẳn ? Chắc thế ? Đừng hòng : có Hòa đây, Hòa nhất định cản cho đến cùng, chị Mai của Hìa ! Đừng tưởng dễ đâu…
- Hòa còn giận chị không ?
Thình lình, chị Mai ngừng làm việc nhìn Hòa chăm chú, hỏi. Hòa chỉ
mong có thế, nhoẻn cười :
- Không ! Em có giận chị đâu ? Chị là chị của em mà.
- Em thương chị không ?
- Thương chớ, chị là chị em mà, sao lại không thương ?
- Thương sao mắng chị là đồ hèn ?
- Tại em tức chị…
- Còn tức không ?
- Hết rồi. Tại chị thách em, em đâu có hớt lẻo như con Bé ? Em
biết giữ bí mật cho chị mà ?
- Em ưng chị đi lấy chồng không ?
- Không ! Chị ở nhà với em với mẹ chớ, lấy chồng làm chi ? Ngu sao
bỏ nhà mình đi theo họ ?
- Bộ chị ở nhà hoài sao ?
- Ở hoài. Nữa em lớn em có nhiều tiền, em cho chị hết.
- Dóc đi ! Hay là cho gái ? Hay là theo gái ?
- Em mà theo gái ? Em đâu giống tụi khỉ hay theo bên chị ? Em khác
mà !
Chị Mai cười sặc sụa. Hòa tức lắm, gặng :
- Chị cười em phải không ? Em nói thiệt mà.
Chợt nhớ chuyện cái thư, Hoà hỏi :
- Chị gởi cho anh Miên chưa ?
- Chưa.
- Sao vậy ?
- Chị hết ghét ảnh rồi. Để ảnh cưới cũng được.
Hòa nhảy nhổm lên :
- Em không chịu đâu…
Người chị ỡm ờ :
- Nói nghe hay không ? Ảnh cưới chị chớ có cưới em đâu mà em không
chịu ?
Hòa không để ý chị trêu mình, nóng nảy :
- Sao chị đổi ý mau vậy ? Kỳ vậy ?
- Không ! Chị đâu có đổi ý, tại em chớ. Em muốn vậy mà !
- Em muốn cái gì đâu ? Ai nói với chị là em muốn chị có chồng đâu
?
- Thì em không viết thơ giùm chị, chị viết chữ xấu lắm, người ta
đọc người ta cười… nên chị…
Hoà gầm lên :
Hoà gầm lên :
- Sao em không viết, tại chị chớ. Bây giờ đưa đây em viết cho,
viết liền.
Vậy là cậu em mắc bẫy ! Hòa nói xong, phóng ba bước lại bàn học
lục giấy bút. Lần này, không phải người chị sốt sắng mà chính là cậu em trai.
Hòa giục chị :
- Rồi đọc đi, em viết liền đây !
- Rồi đọc đi, em viết liền đây !
- Khỏi đọc.
- Khỏi đọc ? Em viết sao được ? Chị giỡn hoài.
- Không giỡn đâu, này : có cái thư chị để dưới gối đó, lấy ra coi
mà chép lại, khoẻ ru.
- Được rồi, viết xong chị cho em hai chục nghe không ?
- Được rồi, viết xong chị cho em hai chục nghe không ?
- Chi vậy ? Đòi tiền công hả ? Vậy mà nói thương chị…
- Không phải, ai đòi tiền công bao giờ ? Tại tóc em dài rồi mà mấy
bữa nay chưa có tiền đi hớt chớ.
- Được, viết xong cái thơ đi, rồi hay.
Hòa phóng ba bước vô phòng chị, lấy cái thư ra, trải trên bàn, lẩm
nhẩm đọc.
Mai la lên :
Mai la lên :
- Viết lẹ đi cho rồi, đọc chi mất công ? Mẹ về giờ đó.
- Em phải đọc qua đã chớ ? Chi gấp vậy ? Em làm sao xong thôi mà.
- Viết rồi đưa tao coi lại, nghe ?
- Được rồi, để em, chị lo công chuyện chị đi, nói hoài bên tai,
làm sao viết xong ?
Ban đầu, Hòa định làm y lời chị, nghĩa là chép nguyên văn lá thư
Mai viết sẵn khỏi nhọc công. Hiềm nỗi lá thư dở tệ, coi không chỉnh. Hòa phải
chịu khó sửa lời, đổi chữ, thêm chỗ này, bớt chỗ kia cho nó trở thành một lá
thư hoàn hảo. Một lá thư nhã nhặn mà cương quyết, lịch sự mà rắn rỏi, theo ý
Hòa. Đành rằng việc của chị nhưng chị đã nhờ thì phải tận tâm, vả lại Hòa cũng
có lý do riêng để mà tận tâm, hay nói cho đúng bề ngoài thì là riêng của chị
song kỳ thật cũng có liên quan đến Hòa, hăm doạ đến quyền lợi của Hòa, Hòa
không thể coi thường được. Dù rằng cái thư đó đã là đầu mối bất hoà giữa hai
chị em, họ đã cãi nhau, giận nhau – chưa kể em Bé vô cớ bị tát và Hòa bị mẹ
phát vào mông – nhưng bây giờ thì mọi việc đã qua rồi.
Hòa theo đúng nguyên tắc viết thư : đề ngày tháng đàng hoàng trên
đầu trang giấy.
Câu mở đầu thật khó. Hòa ngẫm nghĩ mãi không biết nên viết : “Kính gửi anh” hay chỉ viết “Gửi anh Miên” thôi ? Lại còn lối xưng hô nữa. Xưng em, xưng tôi, hay xưng tên ? Đắn đo một chút Hòa quyết định bỏ chữ Kính , chuyện gì phải kính với cẩn ? Bộ anh Miên lớn hơn ai lắm sao ? Và xưng là tôi, không xưng em, cũng chẳng xưng tên, xưng tên hay xưng em có vẻ thân mật quá, không được. Một lá thư như vậy phải giữ đúng mức lạnh nhạt, xa cách. Có thể vì cách xưng hô mà cái thư trở thành vô hiệu quả cũng nên. Không được để cho khoảng cách bị xoá đi do lời lẽ trong thư. Phải viết cách nào mà đọc xong không bao giờ anh Miên ảnh còn có thể viết thêm cái nữa cầu thân mới được. Cũng không tỏ ra khinh bỉ hay hỗn hào, ảnh xung lên, ảnh mách với mẹ thì khốn cho cả hai chị em. Phải công bình mà nhận rằng ảnh chỉ dễ ghét về chuyện ưng cưới chị Mai, chớ thật ra ảnh dễ thương, bây giờ ảnh bỏ ý định đó đi thì ảnh dễ thương liền. Mẹ vẫn thường nói : “cha bây chết trong tay người ta” mình phải biết điều một chút.
Câu mở đầu thật khó. Hòa ngẫm nghĩ mãi không biết nên viết : “Kính gửi anh” hay chỉ viết “Gửi anh Miên” thôi ? Lại còn lối xưng hô nữa. Xưng em, xưng tôi, hay xưng tên ? Đắn đo một chút Hòa quyết định bỏ chữ Kính , chuyện gì phải kính với cẩn ? Bộ anh Miên lớn hơn ai lắm sao ? Và xưng là tôi, không xưng em, cũng chẳng xưng tên, xưng tên hay xưng em có vẻ thân mật quá, không được. Một lá thư như vậy phải giữ đúng mức lạnh nhạt, xa cách. Có thể vì cách xưng hô mà cái thư trở thành vô hiệu quả cũng nên. Không được để cho khoảng cách bị xoá đi do lời lẽ trong thư. Phải viết cách nào mà đọc xong không bao giờ anh Miên ảnh còn có thể viết thêm cái nữa cầu thân mới được. Cũng không tỏ ra khinh bỉ hay hỗn hào, ảnh xung lên, ảnh mách với mẹ thì khốn cho cả hai chị em. Phải công bình mà nhận rằng ảnh chỉ dễ ghét về chuyện ưng cưới chị Mai, chớ thật ra ảnh dễ thương, bây giờ ảnh bỏ ý định đó đi thì ảnh dễ thương liền. Mẹ vẫn thường nói : “cha bây chết trong tay người ta” mình phải biết điều một chút.
Hoà đặt bút, nắn nót :
“Gửi anh Miên,
Tôi là Mai đây. Tôi xin trả lời thư anh viết bữa kia. Đáng lẽ, tôi
phải viết trả lời anh sớm hơn, mà vì bận việc quá, xin anh tha lỗi.”
Đến đó, Hòa buông bút ra, cười khúc khích. Mai nghe tiếng em cười,
liền hỏi :
- Cười gì đó, Hòa ?
- Em cười chuyện em nói láo : em viết là tại chị bận việc nên không
trả lời thơ cho anh Miên, mà thiệt ra là tại chị viết chữ xấu quá, sợ ảnh cười…
Mai sừng sộ ngay :
- Rồi có sao không ? Bộ mày cũng cười tao chuyện đó nữa phải không
?
- Em đâu có cười chị ? Em cười em mà.
- Thôi, viết lẹ đi, ngồi đó mà cười, mẹ về đa !
Hoà viết tiếp :
“Anh Miên ơi ! Tôi biết rằng anh quí mến gia đình tôi, quí mến cha
mẹ tôi, anh đã giúp đỡ gia đình tôi nhiều khi cha tôi mất. Gia đình tôi cũng
như tôi, ai cũng nhớ ơn anh, không bao giờ quên ơn ấy.”
Lại buông bút xuống, cắn môi suy nghĩ. Sắp đến đoạn chính, đoạn
quyết liệt mà ! Khó quá đi thôi ! Viết cách nào đây ? Tôi không lấy anh
đâu ? Tôi ghét anh lắm ? Hay là Anh đừng hòng cưới tôi ? Ai
thèm cái mặt quê của anh ? Bậy ! Không xuôi tai. Phải viết sao cho
xuôi tai, lịch sự mà cứng cỏi mới được.
Thình lình, Hòa vụt nhớ ra một câu rất hay ho, văn vẻ, cái câu đâu
trong cuốn sách thuộc loại “Học Làm Người” mà Hoà nhận được
trong dịp lãnh thưởng cuối niên khoá trước. Câu ấy thế này : “Tôi có thể nói
thẳng với anh”. Chao ! Cái câu mới tuyệt làm sao !
Ngắn, gọn, mà đầy đủ, mà hàm xúc biết là bao nhiêu. Câu đó, người
ta phải hiểu như thế này : Nghe đây, anh kia ! Ta nói cho mà biết : những điều
ta sắp nói với anh đây (với trường hợp Hòa bây giờ là sắp viết )
toàn là sự thật, rất đúng, rất hay, rất chính xác, không bao giờ sai chệch hay
thay đổi lấy một ly con, anh phải nghe theo ! Hãy nghe và nhớ kỹ, đừng cãi lại
làm chi, vô ích !
Hay là – Hoà nghĩ thầm – mình bỏ đi bớt hai chữ “có thể” mà thay
vào bằng chữ khác, chẳng hạn như : tôi xin nói thẳng với anh,
hay là : tôi thấy cần nói thẳng với anh, hoặc là : tôi muốn nói
thẳng với anh… Phải ! Ai lại để nguyên văn câu trong sách, ngộ anh Miên anh ấy
đã đọc cuốn đó rồi thì đố khỏi ảnh cười cho mất mặt.
Hòa hết sức đắc ý, nhưng biết rằng chị Mai không hiểu nổi sự tế nhị của mình, có nói với chị cũng vô ích mà thôi. Chị sẽ nói ;
Hòa hết sức đắc ý, nhưng biết rằng chị Mai không hiểu nổi sự tế nhị của mình, có nói với chị cũng vô ích mà thôi. Chị sẽ nói ;
- Mày nói sao đó tùy mày, miễn nó đọc xong nó đừng lui tới nữa là
tao mừng rồi.
Cho nên, Hòa thưởng thức một mình sự đắc ý đó, và yên lặng viết :
Cho nên, Hòa thưởng thức một mình sự đắc ý đó, và yên lặng viết :
“Đến đây, tôi muốn nói thẳng với anh điều này, đó là chuyện anh
định đi hỏi tôi làm vợ. Tôi không ưng lấy chồng, tôi ưng ở nhà hơn. Tôi phải ở
nhà với mẹ tôi và hai đứa em nhỏ của tôi. Tôi lấy chồng sao được ? Tôi không
thể bỏ mẹ và hai em được. Anh đừng buồn mà cũng đừng giận tôi. Anh nên kiếm
người khác, thiếu gì con gái ? Trong thơ anh có viết là anh sẵn lòng đợi vài
năm nữa, không gấp gáp gì, nhưng mà không phải vậy đâu, anh Miên à ! Anh đừng
đợi vô ích. Tôi không muốn anh đợi đâu, vì tôi không ưng anh mà ! Anh hiểu rõ
chưa ? Chắc anh hiểu rồi chớ ?
Thôi, tôi xin vắn tắt vài giòng cho anh biết, anh đừng đeo đuổi
làm chi. Tôi nói thật đó. Tôi biết rằng nếu mẹ tôi mà biết chuyện này thì sẽ la
tôi dữ lắm, nhưng tôi cũng phải chịu chớ không thể nào đổi ý được. Biết chừng
đâu anh với tôi không có duyên nợ với nhau, chắc vậy.
Xin chào anh và chúc anh vui vẻ, mọi điều như ý”.
Đọc lại một lượt, Hòa mỉm cười vì thấy cái thư quá suôn sẽ, hay
ho. Dù rằng đoạn dưới có hơi cứng, quá cứng là khác, nhưng không thể dịu dàng
được trong cái thư có mục đích thoái thác sự cầu thân. Nó phải như vậy. Nếu là
một bài luận chắc chắn được ít ra cũng 15 điểm ! Tiếc rằng nhà trường không bao
giờ ra bài luận có tính cách như vậy để Hòa có dịp trổ tài.
Cậu em hí ha hí hửng lại gần chị, dặng hắng lên giọng :
- Chị nghe em đọc đây.
- Rồi, đọc đi, tao nghe !
Mai buông kim chỉ, lắng tai. Hòa chẫm rãi đọc, Mai gật gù ra tuồng
hài lòng. Đợi em đọc xong, Mai đón cái thư ngắm nghía. Hòa liếc chị một cái,
hỏi :
- Được không ? Em viết được không ?
- Cũng được… được…
Nghe chị buông hai tiếng được được một cách hờ
hững, Hòa phật ý lắm. Hừ ! Công phu của người ta như vậy mà không có lấy một
tiếng khen, nghĩ có chán không ? Đời nào Hòa chịu ? Hòa gặng lại :
- Được được là sao ? Chị nói rõ coi, hay là chị chê ?
Và nó nhoài tới, giật cái thư trên tay chị làm Mai hốt hoảng ngăn
lại :
- Thôi mà, hay mà ! Chị biết em viết hay mà !
Hòa nhoẻn cười, giục chị :
- Bây giờ chị ký tên vô đi.
- Em ký giùm chị luôn không được sao ?
Hòa thoái thác bằng giọng hiểu biết :
- Đâu được ? Thơ ai nấy ký chớ !
Vậy là Mai phải làm theo lời Hoà.
- Rồi ! Thôi đưa em, em đem bỏ vô thùng cho xong.
- Khoan, để chị coi lại lần nữa đã. Gấp gì ?
***
sắp đi xa
, cố cho Mai nghe được. Mẹ Hòa hốt hoảng :
- Có
chuyện gì vậy ? Nói bác nghe coi.
Miên xúc
động quá, muốn nói toạc ra, nói hết, nhưng anh giữ lại. Thôi ! Người ta đã
không yêu mình thì thôi, đàn ông con trai không có quị lụy, hèn hạ, người ta
khinh. Anh nén một tiếng thở dài, cố giữ giọng tự nhiên :
- Thưa
bác, đâu có chuyện gì. Cậu Tư cháu ngoài Tuy Hoà mới mở cái xưởng sửa xe hơi,
ông kêu cháu ra phụ, coi ngó. Ở nhà cũng bực, bả cứ kiếm
chuyện hoài, cha cháu thì hay nghe lời chửi bới tụi nhỏ, mà cháu có nói tới thì
cũng bị chửi luôn.
Mẹ Hòa
tặc lưỡi, giọng xót xa :
- Khổ
quá, sao bả không biết nghĩ, không thương người ta, người ta ngắn số…
Mai và Hòa hồi hộp lắng tai, đến đó cả hai thở phào nhẹ nhõm. Hòa lo nơm nớp : anh Miên mà mách chuyện cái thơ thì Hòa ốm đòn, con nít mà dám… Mai cũng hãi lắm. Tuy miệng mẹ nói không ưng thì thôi, nhưng mẹ vẫn nghĩ rằng có thể dỗ dành Mai được. Nếu mà bà biết hai đứa âm mưu thì… nguy to.
Mai và Hòa hồi hộp lắng tai, đến đó cả hai thở phào nhẹ nhõm. Hòa lo nơm nớp : anh Miên mà mách chuyện cái thơ thì Hòa ốm đòn, con nít mà dám… Mai cũng hãi lắm. Tuy miệng mẹ nói không ưng thì thôi, nhưng mẹ vẫn nghĩ rằng có thể dỗ dành Mai được. Nếu mà bà biết hai đứa âm mưu thì… nguy to.
Câu
chuyện thưa dần, cho đến một lúc, Bé ngáp dài :
- Con
buồn ngủ, mẹ !
Miên đứng
lên, từ biệt. Mẹ Hòa cầm lại :
- Cháu
ngồi chơi, còn sớm mà.
- Dạ,
thưa bác, cho cháu về.
- Chừng
nào cháu đi, qua ăn cơm một bữa, nghe không ?
- Dạ,
thưa bác, không biết bữa nào đi, với lại cháu bận quá, còn phải lo mua ít đồ
đạc cho cậu cháu, tìm hơi khó, cháu sợ không qua được… Bác tha lỗi.
Miên thối thoát. Mai hiểu rõ lý do khiến Miên đi, khiến Miên từ chối lại ăn cơm. Cái thư hiệu quả thật. Thằng Hòa đáng thưởng hai trăm chớ hai chục nghĩa lý gì ? Mai mừng trong bụng chỉ muốn hét toáng lên, song không dám. Cô vẫn ngán mẹ biết.
Chào mẹ và em Bé xong, Miên chào Mai. Đến lượt Hòa, anh không chào mà lại bảo :
Miên thối thoát. Mai hiểu rõ lý do khiến Miên đi, khiến Miên từ chối lại ăn cơm. Cái thư hiệu quả thật. Thằng Hòa đáng thưởng hai trăm chớ hai chục nghĩa lý gì ? Mai mừng trong bụng chỉ muốn hét toáng lên, song không dám. Cô vẫn ngán mẹ biết.
Chào mẹ và em Bé xong, Miên chào Mai. Đến lượt Hòa, anh không chào mà lại bảo :
- Hòa ra
đây với anh một chút, em !
Hòa đứng
lên, ngoan ngoãn theo Miên ra ngõ. Mai dõi theo, thấy bóng em khuất dần sau dãy
rào dâm bút, đâm lo sợ vẩn vơ. Chả lẽ lại chạy theo ra, không tiện, đành phải
đứng yên chờ, ruột nóng như lửa đốt.
Trong ánh
sáng của ngọn đèn đường vàng úa, sầu thảm, Miên rầu rĩ hỏi Hòa :
- Em viết
thơ anh phải không ?
Hòa giật
mình, không chối được, đành phải nhận :
- Dạ,
phải, mà không phải tại em, tại chị Mai…
Miên chặn
lại, cười buồn :
- Anh
biết, anh hỏi lại cho chắc vậy thôi, anh đâu có trách em ?
Hòa cúi
mặt, không dám nhìn Miên. Hòa sợ đôi mắt âu sầu của Miên, nó làm sao ấy, nó làm
Hòa nao cả lòng. Tội nghiệp anh ! Giọng Miên lại đột ngột nổi lên sau một phút
im lặng bao quanh hai người :
- Anh sắp
đi xa.. Anh nhờ em một chuyện, được không ?
- Dạ được
chớ, mà chuyện gì, anh ?
- Em đưa
thơ này cho chị Mai. Từ nay anh không lui tới nhà em nữa đâu.
- Em
không dám, sợ chị Mai la quá.
- Vậy là
em không chịu giúp anh phải không ?
Hòa do
dự. Miên nói tiếp :
- Anh chỉ
nhờ em một lần này thôi. Không bao giờ phiền em nữa đâu.
Trông bộ
dạng thờ thẫn của Miên, Hòa không thể nào từ chối :
- Dạ
được, anh cứ đưa em, em sẽ giao lại chị Mai.
- Cảm ơn
em lắm, em tốt lắm, Hoòa ơi !
Miên cho
tay vào túi áo, lôi cái thư ra đưa Hòa.
- Thôi,
anh về nghe ! Em vô đi, kẻo nhà trông.
- Anh
viết thơ cho em chớ ?
- Viết
thơ ? Viết làm chi ? Cô Mai sẽ cho là anh làm bộ viết cho em để hỏi dò tin cô
ấy.
Anh không
muốn cô hiểu lầm, anh muốn quên…
- Dạ.
Hai người
chia tay. Hòa nhét phong thư vào túi quần trong lúc Miên cúi đầu rảo bước..
Hoòa dõi mắt theo bóng anh con trai, nó mang máng biết rằng anh sầu khổ, ốm o
vì chị mình. Thật là vô lý, thật là trẻ con hơn cả trẻ con. Hòa tự nguyện sau
này khi lớn lên sẽ không bao giờ khổ sở vì một chuyện vô lý, trẻ con như vậy.
Hòa tặc
lưỡi một cái cho đầu óc khỏi bị ám ảnh vì chuyện khổ sở của Miên, phóng như bay
về nhà. Mai đón em ở ngõ, hỏi dồn :
- Hòa !
Đi đâu lâu lắc vậy ?
- Đừng
nói to mẹ nghe. Có cái này của anh Miên gởi chị đây.
Trong bóng
tối, mắt Mai long lanh sáng :
- Gởi cái
gì ? Ai biểu mày nhận, con khỉ ? Ngu !
- Không
có gì hết, cái thơ, mà chị không nhận thì thôi, mắng người ta cái gì ?
Mai nguẩy
đi :
- Mày
nhận thì mày đọc đi, tao không thèm đọc đâu. Tao không biết…
Hòa bực
mình, gắt lại :
- Không
biết thì thôi. Người ta đi xa, người ta nói người ta không tới nữa. chị khó
chịu lắm.
Hòa quay đi, tay khư khư giữ chặt lá thư. Mai lập tức theo gót em. Tuy cô ghét nhưng vẫn muốn biết trong thư nói những gì. Cô bảo em :
Hòa quay đi, tay khư khư giữ chặt lá thư. Mai lập tức theo gót em. Tuy cô ghét nhưng vẫn muốn biết trong thư nói những gì. Cô bảo em :
- Đưa cái
thơ cho chị coi thử, đi Hòa !
- Đưa làm
chi ? Chị đã nói không thèm mà.
- Thì
không thèm chớ sao, mà nó gởi cho chị chớ phải cho em đâu ?
- Chị
không ưa thì thôi, lấy thơ làm gì ?
- Tao đâu
có lấy ? Tao coi chút thôi.
- Em cũng
coi nữa, chịu không ?
- Rồi,
đưa đây, tao cho coi, hai chị em coi chung, quí báu gì mà giấu ?
Hòa trao
phong thư cho chị. Hai chị em se sẽ vô phòng, vặn đèn sáng, chụm đầu lại đọc :
“Cô Mai,
Tôi đã
được thơ cô rồi. Tôi cũng đã đọc kỹ hai ba lần rồi. Tôi không dám trách cô điều
chi và tôi cũng không bao giờ hèn hạ tới mức kể chuyện này lại với bác, xin cô
yên lòng, tôi đâu phải tiểu nhân lợi dụng lòng thương của bác để cưới cô ? Tôi
vẫn yêu cô, dầu rằng cô hất hủi tôi, không đáp lại mối tình chân thành tha
thiết của tôi.
Tôi thề
từ nay mà đi, không bao giờ quấy rầy cô nữa, không bao giờ tôi lui tới làm rộn,
làm phiền cô nữa. Tôi sẽ đi làm ăn xa lắm. Dầu rằng ở đâu, làm gì tôi cũng khó
quên cô, nhưng mà tôi sẽ cố. Có lẽ tôi không xứng đáng với cô. Tôi cầu chúc cô
ở lại bình an và gặp người vừa ý, xứng đáng hơn tôi.
Tôi không
biết nói văn chương như trong tiểu thuyết, nhưng tôi có thể nói rằng tôi không
bao giờ yêu ai nữa trong suốt đời tôi, vì hình bóng cô ngự trị trong tim tôi
mãi mãi. Tôi xin được giữ trọn hình dáng đó…”
Đọc đến
đây, Mai bĩu môi “xùy” lên một tiếng, còn Hòa thì tấm tắc khen “hay quá”. Mai
giục em :
- Thôi,
đọc tiếp đi, ngồi đó mà khen.
Hai chị
em lại chụm đầu vào lá thư đọc nốt :
“Xin cô
Mai nhớ cho rằng dầu biển dâu thay đổi, tôi vẫn không thể quên cô. Dầu trôi
giạt nơi chân trời góc biển, tôi vẫn nhớ đến cô. Tôi biết rằng tôi ngu dại lắm
nên mới yêu cô, một cô gái khinh người, kiêu ngạo, nhưng mà tôi đành chịu thua
tình cảm của tôi.
Trước khi dừng bút, tôi xin chân thành cầu chúc cho cô được hạnh phúc, vậy là đủ vui rồi. Chào cô. Người bất hạnh : Lê Đình Miên” (Ký tên).
Trước khi dừng bút, tôi xin chân thành cầu chúc cho cô được hạnh phúc, vậy là đủ vui rồi. Chào cô. Người bất hạnh : Lê Đình Miên” (Ký tên).
Hay thiệt
là hay ! Em chưa đọc cái gì mà hay như cái thơ này, chị thấy không ?
Mai thở
phào một cái, phê bình :
- Dóc tổ
! Tiểu thuyết quá trời như vậy mà nói không tiểu thuyết, xạo ! Đưa đây !
- Đưa chi
?
- Đưa tao
đốt, chớ đưa làm chi ? Thằng này hay chưa ? Tính giữ làm của hả ?
- Uổng
quá, chị Mai cho em đi !
- Cho mày
! (Mai trừng em một cái) hết chuyện rồi chắc ?
Và Mai
chìa tay ra.. Trông dáng điệu quả quyết của chị, Hòa đành trả cho chị tuy trong
lòng nó hết sức tiếc rẻ, chỉ muốn cất lại, lâu lâu lấy ra đọc chơi. Không do dự
một giây, Mai giật phăng lá thư, xé toạc ra. Hoà nói như rên :
- Anh
Miên mà biết chắc ảnh khóc quá, chị Mai ơi !
- Cho
khóc, đáng đời !
Mai nói,
giọng lạnh băng, không mảy may cảm động, khác hẳn thằng em trai đa cảm của
mình.
Thế là
xong : một thiên tình sử vừa tan nát theo lá thư xanh, chấm dứt trong bóng tối.
Chương 06
Thấm thoát mà Xuân về, Tết đến. Thật đúng như câu người ta thường
nói : “Tết đến bên lưng, con trẻ thì mừng, cha mẹ thì lo” Hoà và Bé hí hửng ra
mặt, Mai cũng tươi tỉnh hơn lên. Chỉ mình mẹ là cuống quít mỗi khi nhìn tờ
lịch. Công việc làm ăn buôn bán dường như khó khăn ra. Người bán quá nhiều,
người mua thì lại ít. Các gian hàng đua nhau chưng bày bánh, mứt, kẹo, đồ hộp,
thức ăn khô. Trái cây từ các tỉnh đổ xô về, từ ngoại quốc tràn ngập đến. Từ đầu
tháng 11 ta, Mẹ Hoà bảo Mai nghỉ việc hiệu may ở nhà làm bánh mứt với mẹ..
Ngoài chuyện làm bán kiếm lời, mẹ còn có dụng ý cho con gái tập tành chút đỉnh
việc nữ công. Hồi trước mẹ học đủ thứ, học ở bà, ở các bà cô, bà dì, bà bác…
Còn Mai bây giờ không học được ở đâu cả, bác, cô, dì, mợ hoặc vì biến cố của
đất nước trôi giạt mỗi người tận một nơi xa tắp, hoặc biệt tích đâu rồi, hoặc
hàng đôi ba tháng mới có một lá thư ngắn cho biết gia cảnh thế nào, chớ không
hề được gặp. Mai lại phải từ giã nhà trường quá sớm, vào lúc trong lớp Mai chưa
có nổi một cô giáo dạy nữ công.
Ở nhà thì bận rộn nhiều việc, chưa kể việc học may, nên mẹ ao ước
có dịp truyền lại cho con gái những cái khéo léo của mình ngày trước. Thật là
nhất cử lưỡng tiện, không có dịp nào hơn. Nhà đâu có nhàn rỗi, dư dật như người
ta mà bày biện làm trong ngày thường để ăn và cho con gái học ?
Hoà và Bé vui thích quá : món gì hai anh em nó cũng được nếm qua
loa, nhụy bánh in, rẻo bánh kẹp, nước đường dư v.v… mứt thơm hả ? Hai đứa được
hưởng cái cùi, mứt kim quất ư ? Hai đứa được ăn mấy trái bể. Quả mứt chanh này
sao có vẻ không xanh mấy ? Thôi cho tụi nó quách cho xong, cái hoa đu đủ này bị
gãy một cánh, còn giữ làm chi ? Lại tặng cho hai đứa…
Suốt ngày, Mai không rời được cái bếp, hai má cô lúc nào cũng hồng
hồng, trán lúc nào cũng dâm dấp mồ hôi, tay luôn luôn cầm cái quạt, hay cái
dao, nếu không là đôi đũa.
Bé a đại vào mình chị, hít lấy hít để và phát giác với anh Hòa :
Bé a đại vào mình chị, hít lấy hít để và phát giác với anh Hòa :
- Chị Mai thơm quá, anh Hòa ơi ! Thơm mùi mứt…
Hai đứa cũng lămg xăng dữ lắm, sẵn sàng giúp đỡ, hợp tác với chị
Mai lắm, song chúng vụng về, đụng đâu hỏng đó, hư đó, nên bị mẹ đuổi quầy quậy.
Hòa chỉ đắc lực có mỗi chuyện rửa bát. Mai mà nhờ cậu em trai quạt hộ lò lửa
thì khi lò lửa đỏ lên , soong nước đường cũng đầy những tro than. Mượn canh
chừng thau mứt cỡ 10 phút thì khi vô thau mứt cháy ! Coi hộ nồi cơm thì vừa
sống vùa khê, kho nồi cá một bữa thì mặn đắng, nuốt không trôi khỏi cổ.
- Con trai hư ! Không làm gì nên thân hết !
Mẹ quát, đuổi Hòa lên. Nhưng chị Mai thì không. Chị nhìn Hòa bằng
đôi mắt bao dung, âu yếm, khác xa dạo trước. Hòa đã cất giùm chị chướng ngại
vật (viết thư cự tuyệt gởi anh Miên nên chỉ biết ơn chăng ?) Hòa vẫn tự hỏi và
dù không chắc mình đoán đúng hay sai, Hòa không cần thắc mắc chi, cứ an nhiên
toạ hưởng sự yêu chìu của chị. Thỉnh thoảng, Hoòa lại nhớ đến Tâm và chị Bạch
Tuyết của bạn. Hòa mà có người chị như chị Bạch Tuyết thì Hòa mong ai đến rước
cho mất đất không hề tiếc thương, ngăn cản chi cho nhọc xác. Mà hễ nhớ đến bạn,
Hòa xúc động mãnh liệt, lòng yêu thương chị tràn trề, Hòa phải thể hiện lòng
thương yêu đó bằng cách xáng lại bên chị, ôm ngang lưng chị, bá lên cổ, lên vai
chị không kể lúc chị đang bận việc hay rảnh rang, mặt mũi chị sạch sẽ hay lấm
lem tro than, dầu mỡ.
Hạnh phúc của Hòa ! Nó quả hao hụt đi khá nhiều sau cái chết của
cha, nhưng mà Hòa vẫn còn… vẫn có chứ không hẳn là mất sạch, tiêu tan cả. Cha
mình bây giờ… Hòa chỉ còn mang máng nhớ những chuyện xảy ra.. Hòa đã chịu chấp
nhận sự thật. Dù không một lần được gặp cha trong giấc mơ Hòa vẫn cố gắng học
hành để cha được vui trong cõi chết như lời thầy dặn, và để mẹ bằng lòng.
Về phần mẹ Hòa, bà cũng như hầu hết các gia trưởng nghèo khác, còn
hơn nữa, vì bà vừa làm mẹ, vừa thay chồng làm cả chức vụ người cha. Một mình
thui thủi bà đã cố ngăn chặn nỗi buồn trong lòng bằng mọi cách.
Công việc bận rộn cũng khuây khoả đi nhiều.. Bà rất mừng vì có
nhiều việc để làm. Nhưng từ ngày 26 ta trở đi, bà buồn rũ. Bánh mứt đã xong, giao
cho hiệu cả rồi. Bà bỗng mệt nhoài, chán nản hơn bao giờ cả. Mai dắt hai em đi
chợ tết. Nhà vắng hoe. Một mình mình, bà thấy như nỗi buồn nở bung ra, vùng
lên, nỗi buồn mà từ lâu lắm sau khi chồng nằm xuống bà đón nhận nó và hết sức
thu gói lại. Bà chỉ còn có các con. Họ hàng, quê hương, làng mạc bây giờ đã xa
lơ, xa lắc. Không biết đến bao giờ mới được gặp gỡ, được trở về. Chao ơi ! Sao
mà lẻ loi, mà đơn độc thế ?
Người ta , ai cũng như đũa có đôi, còn bà thì…
Bà muốn khóc mà lạ quá, hình như nước mắt cạn khô rồi… Hay bởi lâu
nay bà cứ cầm giữ nên thành thói quen, giờ không khóc được ?
Bà thu dọn bàn thờ chồng, lau quét sạch sẽ. Khói hương bay lung
linh, toả ra mùi thơm quen thuộc. Bà nhìn lên di ảnh chồng : mắt sáng, trán
cao, cằm vuông, mũi thẳng… toàn thể không có chút gì biểu hiệu đó là một người
yểu mệnh. Thế mà…
Trong một giây, thốt nhiên bà thấy lao đao như muốn ngã, bà hoa mắt lên, có cái ảo giác người trong ảnh tiến lại gần bà, nắm lấy tay bà và cất giọng âu yếm , dịu dàng, nói lên cái câu ông từng nói một lần khi ngỏ ý muốn cưới bà :
Trong một giây, thốt nhiên bà thấy lao đao như muốn ngã, bà hoa mắt lên, có cái ảo giác người trong ảnh tiến lại gần bà, nắm lấy tay bà và cất giọng âu yếm , dịu dàng, nói lên cái câu ông từng nói một lần khi ngỏ ý muốn cưới bà :
- Tôi còn về đó làm chi nữa ? Đau lòng lắm ! Tôi sẽ lấy quê em làm
quê tôi, cha em làm cha tôi. Chúng ta sẽ sống bên nhau, cùng chia sớt niềm vui,
nỗi khổ…
“ Mình chia sớt niềm vui, nỗi khổ ?” Bà nhắc lại, giọng xót xa, đau đớn. “Anh nói vậy, tôi còn nhớ đây mà anh đã vội bỏ tôi, đi… “ Tất cả sức mạnh của bà như tiêu tán mất trong giây phút, bà phải bíu chặt mép bàn thờ mới đứng vững.
“ Mình chia sớt niềm vui, nỗi khổ ?” Bà nhắc lại, giọng xót xa, đau đớn. “Anh nói vậy, tôi còn nhớ đây mà anh đã vội bỏ tôi, đi… “ Tất cả sức mạnh của bà như tiêu tán mất trong giây phút, bà phải bíu chặt mép bàn thờ mới đứng vững.
Từng giọt, từng giọt nước mắt nóng trào ra, lăn dài xuống má và bà
không ngăn chặn nữa. Có ai đâu, bà tha hồ khóc, khóc cho vơi, cho hả, khóc như
đứa trẻ con, như chưa từng được khóc bao giờ.
Niềm thống khổ vơi đi, tan theo nước mắt. Vậy mà lâu nay bà cứ ngỡ
mình cạn hết lệ rồi.
***
Thức ăn trong ba ngày Tết
đã sửa soạn xong. Tuy là nói qua quít xong thôi nhưng nghĩ rằng trong một năm
ròng chỉ có ngày này, nên mẹ Hoà lại cố sắm cho đầy đủ.
Những gia đình công chức, người ta nghỉ ngày chúa nhật, ngày lễ, còn mẹ con Mai thì làm việc tuốt tuột suốt tháng quanh năm. Mai lúc nào cũng kim với chỉ, mẹ lúc nào cũng có mặt ngoài chợ từ tinh mơ cho đến tắt mặt trời, bất chấp nắng hạ, mưa đông. Tay nghỉ thì miệng nghỉ cho nên không dám nghỉ. Có lẽ vì vậy mà cái Tết đối với dân nghèo và dân quê long trọng và có ý nghĩa khác thường, đặc biệt. Dân thành phố, nhất là dân giàu có họ cần gì ngày Tết ? Một năm họ hưởng biết mấy lần Xuân ? Họ có biết bao nhiêu là dịp ăn chơi phè phỡn ?
Những gia đình công chức, người ta nghỉ ngày chúa nhật, ngày lễ, còn mẹ con Mai thì làm việc tuốt tuột suốt tháng quanh năm. Mai lúc nào cũng kim với chỉ, mẹ lúc nào cũng có mặt ngoài chợ từ tinh mơ cho đến tắt mặt trời, bất chấp nắng hạ, mưa đông. Tay nghỉ thì miệng nghỉ cho nên không dám nghỉ. Có lẽ vì vậy mà cái Tết đối với dân nghèo và dân quê long trọng và có ý nghĩa khác thường, đặc biệt. Dân thành phố, nhất là dân giàu có họ cần gì ngày Tết ? Một năm họ hưởng biết mấy lần Xuân ? Họ có biết bao nhiêu là dịp ăn chơi phè phỡn ?
Hòa dạo phố với chị và em
Bé, lòng bừng bừng vui sướng. Hòa chưa mặc áo mới, còn để dành. Mai cũng vậy.
Chỉ mình em Bé nằng nằng mặc cho bằng được mới nghe. Nó xúng xính đi bên anh và
chị, miệng nhồm nhoàm nhai kẹo, gặp ai cũng toét ra cười, thấy cái gì cũng hỏi.
Hòa nói nhỏ với chị mai :
- Em thấy cái áo của Bé
không được đẹp, hơi rộng…
- Phải, mà đừng nói to, nó
nghe nó chê. Tại mẹ ưng vậy, mẹ nói em mau lớn.
- Bé ăn kem, Bé ăn kem ! Mua cho Bé đi, chị Mai !
- Bé ăn kem, Bé ăn kem ! Mua cho Bé đi, chị Mai !
Thình lình, Bé dừng lại,
đòi. Hòa liếc qua cái bảng ghi giá tiền, gạt đi :
- Thôi ! Ăn bậy hoài, ăn đủ
thứ, đau bụng giờ. Mẹ la…
- Mẹ không có la. Mẹ nói
rồi, mẹ nói bữa nay Tết, cho em Bé ăn. Mua cho Bé, Bé không cần anh Hòa, chị
Mai mua mà !
Mai vội bảo em :
- Thôi kệ, để chị mua cho
em một cái, cả năm mới ăn một lần, Hòa ăn không ? Chị mua cho em luôn ?
- Em không thích… mắc lắm !
- Coi kìa, mình có ăn hoài
đâu, chị mua cho em, nghe ?
- Mà chị có ăn không ? Chị
có ăn em mới ăn..
- Được rồi, em cứ ăn trước
đi.
Và không do dự nữa, Mai mua
cho em hai hộp. Tuy là từ chối nhưng khi Mai mua xong thì Hòa ăn một cách ngon
lành. Nó ưng làm người lớn nhưng nó vẫn còn là trẻ con.
Mai thì nghĩ : “Tội nghiệp hai em, kham khổ cả năm, ngày Tết phải cho tụi nó sướng một chút”.
Mai thì nghĩ : “Tội nghiệp hai em, kham khổ cả năm, ngày Tết phải cho tụi nó sướng một chút”.
Nhìn hai đứa, Mai chạnh
nghĩ đến cha và lần thứ nhất cô gái hiểu một cách thấm thía lời cha ngày trước
: “nhìn tụi nó ăn mình thấy ngon, thấy no luôn” Phải ! Bây giờ Mai cũng vậy, cô
không ăn nhưng nhìn chúng ăn cô thấy ngon, thấy vui thích lắm. Cái cảm giác đó
khi còn cha, không bao giờ Mai có cả.
Từ một cô gái ưa vòi vĩnh,
hay làm dáng, thích bắt nạt em và mơ mộng – sơ sơ thôi – sau cái chết đột ngột,
bất ngờ của cha, cô hoàn toàn đổi khác. Mai trở nên thực tế, chăm chỉ, biết lo
xa. Cô bỏ hẳn thói quen vô trách nhiệm ngày trước. Cô hết dùng cái câu cửa
miệng :
- Không biết, để mẹ về đã.
Hay :
- Mệt lắm, không phải
chuyện tao đâu.
Khi cha còn sống, Mai được
nuông chìu và bênh vực, cô không từng nếm được cái vui của sự hy sinh, sự quên
mình, sự ban cho. Cô chỉ biết thụ hưởng, chỉ vui khi được nhận. Như một phép
mầu kỳ diệu, bây giờ cô thay đổi hẳn tính tình, cô không hề đòi hỏi cho mình.
Càng ngày, Mai càng tỏ ra gười lớn, muốn kê đôi vai nhỏ bé gánh bớt, chia sớt
cái trách nhiệm nặng nhọc của mẹ cô, vì Mai biết đó là cách tốt nhất để mẹ
nguôi bớt sầu buồn, để bù đắp vào sự mất mát quá lớn của gia đình mình. Nếu
không, mẹ buồn rầu thái quá, mẹ sinh đau ốm rồi bà sẽ chết sớm, bỏ ba chị em
lại côi cút trên đời, thì không biết xoay sở ra sao. Mai hãi quá, không dám
nghĩ đến điều ghê gớm ấy.
Dần dần, Mai tìm thấy niềm vui trong sự chia sớt trách nhiệm với mẹ. Ngay trong những lúc Hòa hay em Bé làm phiền cô, cô cũng thấy vui, thấy thích. Vì cô nghĩ rằng hai em dựa vào mình và mình đã trưởng thành, mình có cái bổn phận dắt dìu, che chở chúng, cưng chìu chúng để chúng quên đi điều bất hạnh.
Dần dần, Mai tìm thấy niềm vui trong sự chia sớt trách nhiệm với mẹ. Ngay trong những lúc Hòa hay em Bé làm phiền cô, cô cũng thấy vui, thấy thích. Vì cô nghĩ rằng hai em dựa vào mình và mình đã trưởng thành, mình có cái bổn phận dắt dìu, che chở chúng, cưng chìu chúng để chúng quên đi điều bất hạnh.
Phải bù vào chỗ bất hạnh
đó. hất hủi chúng chúng sẽ tủi thân. Cô như quên rằng mình cũng mất cha, mà chỉ
nhớ rằng mẹ và em mình khổ sở vì cha chết, mình phải, bằng bất cứ giá nào lấp
vào khoảng trống, bù vào sự thiếu thốn đó. Đôi khi, bị mẹ bẳn tính rầy oan, cô
vẫn không oán hận.
Mai thương mẹ, thương em và
tìm thấy nguồn vui, lẽ sống trong tình thương và bổn phận, không ao ước chi
hơn.
Ba chị em đi ngang hàng
hoa. Mai nghe lòng mình rung động nhẹ khi một mùi thơm thoang thoảng, mùi thơm
đó làm cô nhớ tới mấy mùa xuân cũ, cha cô thường dắt chị em cô đi dạo hàng hoa.
Ông chịu khó làm theo ý
con, mặc chúng đưa đến đâu cũng đi theo, có khi đứa đòi đến hàng này, đứa đòi
đến hàng kia, ông giả vờ buồn rầu nói :
- Thôi các con hãy cắt ba
ra làm ba khúc, mỗi đứa lôi một khúc theo cho tiện.
Lũ con cười vang lên, ông cũng cười theo. Chao ! Sao mà nhiều kỷ niệm về cha quá ! Những ngày đó còn đâu nữa ? Nó đã lùi vào dĩ vãng… cô gái thở dài.
Lũ con cười vang lên, ông cũng cười theo. Chao ! Sao mà nhiều kỷ niệm về cha quá ! Những ngày đó còn đâu nữa ? Nó đã lùi vào dĩ vãng… cô gái thở dài.
- Chị Mai, mua hồng cho Bé
đâu ?
- Thôi, Bé làm như con nhà
giàu, cái gì cũng đòi.. Hồng mắc lắm…
- Mắc gì ? Chị Mai hứa rồi,
anh Hoà nhiều chuyện…
Tiếng hai em cãi cọ làm Mai
vụt tỉnh. Cô ôn tồn :
- Được rồi, lát nữa chị mua
hồng. Ba cũng ưa ăn hồng lắm. Mua cúng ba rồi cho Bé ăn luôn.
Nghe chị viện đến hai tiếng ba ưa Hòa thôi cằn nhằn em. Người ta không thể keo kiệt với người chết được, huống chi người chết đó lại là người cha yêu quí của mình.
Nghe chị viện đến hai tiếng ba ưa Hòa thôi cằn nhằn em. Người ta không thể keo kiệt với người chết được, huống chi người chết đó lại là người cha yêu quí của mình.
***
Sáng mồng một mẹ và hai em
đi chùa. Mai ở nhà trông nhà một mình. Ngồi yên, Mai đắm hồn trong vắng lặng,
cô bỗng thấy ngôi nhà rộng mông mênh. Trên bàn thờ cha, dĩa hoa quả xanh tươi,
vui mắt. Một làn khói nhẹ, thoang thoảng, mờ ảo toả ra từ bát hương, bao phủ
trước di ảnh cha. Trong khoảnh khắc, cô gái thấy một cảm giác lạ, đó là cái cảm
giác cha mình không xa cách chi, ông vẫn quanh quẩn đâu đây trong cõi vô hình,
tuy mình không thấy. Phải ! Tuy hình hài ông đã tiêu tan cùng cát bụi, trở
thành cát bụi, nhưng giới linh hồn nếu có, chắc ông cũng ở cạnh vợ con. Mai
nhìn thẳng vào hình cha, nom linh động như khi ông còn sống. Mai nhớ lại cử
chỉ, lời nói, thói quen của cha mình. Có người nào thương con hơn cha mình
không ? Mình được sung sướng, được cưng chìu quá, cho nên trời bắt mình mất cha
sớm để bù vào ? Cô mím môi trong một ý nghĩ thách thức, cam chịu : “Được rồi,
dù trời có ác như thế đi nữa, ta cũng cam, vì ta đã sống trong những ngày đầy
đủ, sung sướng bên cha. Bây giờ là lúc ta bắt chước như cha ta : thương yêu,
săn sóc mẹ và hai em. Ta sẽ như cha… ta sẽ… Xin cha giúp con để con đủ sức làm
cây cột cái, thay cha mà chống đỡ gió mưa cho mọi người nương tựa, kể từ đây”.
Mai chớp mau mắt, hai giọt
nước mắt trào ra. Không phải là những giọt lệ đau đớn mà là những giọt nước mắt
sung sướng, sung sướng vì mình có trách nhiệm, và biết vui vẻ đón nhận nó, mình
đã khôn ra, đã lớn lên, sắp trưởng thành.
Chợt có tiếng gõ cửa. Mai
lau vội mắt, đứng lên. Cô Thu, bạn Mai và em cô, bé Thủy bước lên hiên. Mai reo
lên vui vẻ :
- Chà diện quá ! Đã đi đâu
chưa ?
- Qua mừng tuổi bác với mày
đây. Chưa đi đâu hết, đợi mày đi cho vui chớ.
- Tao đi không được, phải
coi nhà, mẹ đi với hai đứa nhỏ rồi.
- Không gấp, tao đợi.
- Mà đi đâu chớ ?
- Đi xin xăm.
- Thôi, tao không đi đâu.
- Sao vậy ? Mấy năm…
- Mấy năm khác, năm nay
khác…
- Khác cái gì ? Bộ giờ mày
không cầu mong gì hết ? Không muốn biết…
- Phải đó ! Bây giờ tao
không cầu mong gì, tao đâu có mua giấy số mà mong trúng ?
Gia đình như vậy là tốt
rồi. Số mạng mình ăn thua gì ở chuyện xin xăm. Ba tao nói vậy.
- Trời ơi ! Con nhỏ này bây giờ nói nghe lạ quá… mày có khùng không ? Nói nghe như đàn ông !
- Trời ơi ! Con nhỏ này bây giờ nói nghe lạ quá… mày có khùng không ? Nói nghe như đàn ông !
- Ừ ! Giống đàn ông, giống
ba tao đó, sao không ?
Mai thao thao nói nhưng rồi
đột nhiên cô dừng lại. Thu làm sao hiểu được lòng cô ? Mà Mai thì không biết
diễn tả tâm trạng mình sao cho minh bạch được. Mai quay sang Thủy :
- Chị có giống đàn ông
không ? Em Thủy nói coi ?
- Trời ơi ! Nhè con nít mà
hỏi, nó biết gì ?
- Con nít chớ chưa chừng
khôn hơn thứ lớn đầu như mày đó… to xác mà ngu…
- Ê, năm mới không được nói
bậy nghe.
Hai cô gái cười vang lên.
Chẳng có gì cũng làm họ vui được. Ngày năm mới có khác, họ có thể vui vì một
câu vớ vẩn, vô nghĩa như vậy đó.
***
Sáng mồng hai, Mai sửa soạn
bữa ăn sáng sớm hơn thường lệ, để kịp đi thăm mộ cha đỡ nắng. Bánh chưng, dưa
món, thịt kho. Đó là những món đặc biệt của gia đình này trong ngày Tết. Ngày
thường thì cơm nguội hay bánh mì đã là sang rồi.
Hòa cũng mặc áo quần mới. Sắp đi thăm mộ cha mà. Mẹ ngắm nghía các con, vui vẻ nói trong mâm ăn :
Hòa cũng mặc áo quần mới. Sắp đi thăm mộ cha mà. Mẹ ngắm nghía các con, vui vẻ nói trong mâm ăn :
- Tụi bây lớn đại rồi đó !
Thình lình, Thu hớt hải
chạy vào, cô chưa mặc áo dài làm Hòa hơi khó chịu : sáng sớm lại là ngày Tết mà
tới nhà người ta… nhưng Hòa sững sờ khi nghe Thu nói :
- Bác hay gì chưa ? Đừng đi
đâu sáng nay đó. V.C tấn công… họ về nhiều…
Mẹ buông đũa, lắp bắp hỏi :
- Ai nói ? Thiệt không ?
Mai thì không tin :
- Thôi, nói bậy bạ hoài…
Thu trừng mắt :
- Không tin hả ? Mở radio
nghe coi…
- Hòa, mở radio, con !
Hòa phóng ba bước lại đầu
giường mẹ lấy radio vặn lên. Ba cái miệng cùng kêu :
- Đâu ? Có gì đâu ?
- Đợi chút coi, rồi có bây
giờ đó mà. Nãy giờ cứ ít phút lại có… người ta dặn mình đừng ra ngoài, giới nghiêm
cả ngày, không phải chơi đâu.
- Giới nghiêm ban ngày hả ?
- Chớ sao…
Thu ngừng lại vì từ trong
radio có tiếng phát ra :
“Đồng bào vững lòng… triệt
để tuân theo… “
Mọi người cùng im phăng phắc. Thu nói đúng. Mẹ thở dài. Mai tức tối :
Mọi người cùng im phăng phắc. Thu nói đúng. Mẹ thở dài. Mai tức tối :
- Cả năm có một ngày định
đi thăm mộ cha mà không được, ức chưa ?
Trọn ngày mồng hai ai nấy
cứ quanh quẩn trong nhà, dáng bộ vô cùng bực tức. Mẹ không ngớt thở ngắn, than
dài :
- Trời ơi ! Đánh nhau trọn
năm không chán sao mà còn đánh ngay trong ngày tết ?
Hòa và Bé thay nhau canh chừng cái radio. Mai tuy không nói gì, nhưng không khác chi mẹ và hai em. Cô cười gượng gạo, dỗ dành chúng :
Hòa và Bé thay nhau canh chừng cái radio. Mai tuy không nói gì, nhưng không khác chi mẹ và hai em. Cô cười gượng gạo, dỗ dành chúng :
- Thôi, mai đi cũng được,
gấp gì…
Kỳ thật là cũng để an ủi
chính mình.
Ngày mồng hai chậm chạp
trôi qua trong sự buồn tẻ.
Sáng mồng ba, chưa kịp rửa
mặt, mới mở mắt Hoà đã vặn đài, ngóng tin. Vẫn không có gì đáng mừng. Vẫn những
lời lẽ y như hôm qua. Hòa phát khùng lên, Mai thì nóng ruột như lửa đốt. Tuy
nhiên, cô vẫn cố giữ vẻ trầm tĩnh bề ngoài.
Bữa ăn sáng ngon lành, đặc
biệt lại được dọn ra, nhưng một điều khác lạ : không ai chiếu cố đến, trừ em
Bé. Mẹ nói :
- Tụi bây ở nhà, nghe ?
- Mẹ đi đâu ?
Các con cùng hỏi.
- Không đi đâu xa hết. Qua
bên xóm một chút, cuồng cẳng không chịu nổi.
Cỡ chín giờ sáng mẹ hộc tốc chạy về vì tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ ròn, liên tiếp, không biết chỗ nào song rất to, rất rõ. Và độ nửa giờ sau thì người ta dắt díu nhau, bồng bế, mang xách, lôi thôi, lếch thếch tuôn vào trong hẻm như giòng thác lũ. Mặt người nào cũng ghi đậm nỗi kinh hoàng, trẻ con khóc nheo nhéo, ngằn ngặt trong những cái bọc vải, có đứa khản đặc tiếng lại. Mấy đứa lớn bị lôi tuồn tuột không chút nương tay, trông cảnh tượng hết sức thương tâm.
Cỡ chín giờ sáng mẹ hộc tốc chạy về vì tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ ròn, liên tiếp, không biết chỗ nào song rất to, rất rõ. Và độ nửa giờ sau thì người ta dắt díu nhau, bồng bế, mang xách, lôi thôi, lếch thếch tuôn vào trong hẻm như giòng thác lũ. Mặt người nào cũng ghi đậm nỗi kinh hoàng, trẻ con khóc nheo nhéo, ngằn ngặt trong những cái bọc vải, có đứa khản đặc tiếng lại. Mấy đứa lớn bị lôi tuồn tuột không chút nương tay, trông cảnh tượng hết sức thương tâm.
Người ta mang theo tất cả
cái gì mang theo được : quần áo, chăn màn, nồi niêu, và có lẽ đó là tất cả gia
sản của người nghèo.
Trông thấy cảnh ấy, mẹ Hòa
không nén được lo âu. Bà đi ra, đi vào, đi lên, đi xuống, cầm cái nọ, buông ra
rồi cầm cái kia, nhưng bà không làm gì được. Bụng bảo dạ nên thu vén chút đỉnh
ngộ phòng có chạy thì sẵn sàng, nhưng bà không làm được điều trí khôn giục mình
làm.
Chạy đi đâu ? Tá túc chỗ
nào ? Đâu là chỗ an toàn trong khi chiến tranh xảy ra ngay trong thành phố ?
Ban nãy, nghe cháu bà Năm nói “họ” đóng quân trong một biệt thự bốn tầng lầu
gần chợ Bến Thành, rất nhiều toán lẻ tẻ ở cầu Xa lộ, ngã Phú lâm, Chợ lớn cũng
có họ. hai bên bắn nhau suốt mấy ngày nay mà mình không hay biết chi cả. Bởi
trong đêm giao thừa thì pháo nổ ran, tiếng súng lẫn trong tiếng pháo, còn ngày
mồng một, mồng hai thì ai cũng cho là trò đảo chính, đảo chiết chi đây, nên
không ai lo sợ, chỉ sốt ruột thôi.
Cho đến bây giờ, trưa mồng
ba, sự lo sợ đã hiển nhiên, thay thế cho sự bực mình. Không phải trò chơi,
không phải đảo chính…
Hòa theo chị Thu về nhà chị
ấy, trèo lên gác nhìn về phía Chợ lớn : từng cột khói đen nghịt một góc trời.
Tiếng súng khi nhặt khi thưa không ngớt.
Chợ không họp ngày mồng bốn. Đêm nằm cứ giật mình thon thót, một tiếng động nhỏ cũng đủ gây nên sự kinh hoàng. Không khí đe doạ cứ bao trùm, lẩn quất đâu đây không chịu buông tha.
Chợ không họp ngày mồng bốn. Đêm nằm cứ giật mình thon thót, một tiếng động nhỏ cũng đủ gây nên sự kinh hoàng. Không khí đe doạ cứ bao trùm, lẩn quất đâu đây không chịu buông tha.
Mẹ thì thọt qua nhà bà Năm,
nhà Cai Bình, nhà Bốn Thôi dò hỏi tình hình. Ai cũng nói là không phải chạy đi
đâu cả. Hai bên đang đánh nhau ? Thì cứ đánh. Mình là dân lành, dốt
nát, ai nỡ đánh giết mình ? Đánh cũng có chỗ chớ ! Chắc là một đòn chính trị
chi đây ? Không ! Đừng tưởng đòn chính trị… chuyện này làm náo động cả thế giới
mà ! Thôi, bàn lui bàn tới làm chi ? Ăn thua gì ở mình ? Ăn thua là ở Dinh Độc
Lập, ở Toà Bạch Ốc, ở ngoài Bắc Việt ấy chứ, bàn tán làm gì ? Mẹ Hòa càng rối
ruột thêm. Súng cứ nổ, người ta cứ bồng bế nhau, lếch thếch chạy vào hẻm. Người
trong hẻm thì bàn tán nhốn nháo, xôn xao, khen chê, dò đoán lung tung, chẳng
đâu đến đâu.
Những lúc như vậy mà nhà lại không có đàn ông, có khổ không ? Chẳng biết quyết định làm sao cả.
Những lúc như vậy mà nhà lại không có đàn ông, có khổ không ? Chẳng biết quyết định làm sao cả.
Đêm đến, nỗi lo ngại càng
tăng. Mẹ cho Hòa với em Bé qua nhà Cai Bình coi ti vi. Ở nhà mãi buồn cũng tội,
cho chúng đi coi đỡ buồn may ra lại có tin hay. Đài phát thanh thì chỉ ngần ấy
chuyện : kêu gọi, hô hào đoàn kết, hy sinh, đừng tin theo giặc, kêu gọi hiến
máu, kêu gọi công chức, quân nhân trở về đơn vị, nhiệm sở…
Cả nhà Cai Bình và Hòa, Bé
đang mải mê theo dõi tuồng cải lương : “Kỳ nữ Mạnh Lệ Quân” thì thình lình có
tiếng kêu gọi từ dưới đường vọng lên :
“Hỡi đồng bào thân mến !
Quân đội giải phóng đã làm chủ tình hình thủ đô. Yêu cầu đồng bào vững tâm tin
tưởng… Ngày mai… “
Cai Bình hốt hoảng, tắt
phụt ngọn đèn và cũng một lúc, ông tắt biến luôn cái ti vi. Lũ trẻ chưa kịp
phản đối, ông đã hét lên nho nhỏ :
- Im hết, muốn chết không ?
Hai đứa kia ! Cút mau ! Giờ này mà còn ngồi đây…
Rõ người lớn bất công, ban
nãy chính ông ta mời mẹ con Hòa sang mà bây giờ lại cũng chính ông tống khứ hai
đứa nhỏ trở về. Chẳng qua khi sợ, người lớn, người ta quên tuốt tuột những gì
vừa mới nói… cách mươi phút trước.
Hòa riu ríu dắt em, băng ngã
tắt về nhà, quên cả chào hỏi lễ phép như mọi bận. Tiếng kêu gọi dưới đường vẫn
văng vẳng vọng lên nhưng càng phút càng xa dần. Bóng người lạ cũng mất hút sau
giàn hoa giấy nhà ông Tiết. Không khí đột nhiên căng thẳng, tăng phần đe doạ
hơn lên. Người ta sợ đến quên cả thở.
Đứa con út Cai Bình nhai vú mẹ chanh chách
trong bóng tối. Cai Bình nhịn thở se sẽ theo hai đứa trẻ, đưa chúng về tận ngõ
mới thôi, chừng như ông ta hối hận về thái độ của mình vừa rồi, không nỡ để
chúng phải đi một mình.
***
Hai ngày sau đó, tình hình
như lắng dịu, yên yên. Nhưng đến tối mồng sáu đột nhiên tiếng súng nhặt lại, và
càng về khuya súng nổ càng dòn. Mẹ Hòa lôi tuột cả lũ xuống gầm giường cho chắc
bụng. Cửa nẻo khoá kỹ. Bàn thờ cha không đốt hương cũng chẳng có đèn.. Trong bóng
tối, Mai nghe rõ từng nhịp thở của mẹ và hai em. Mắt thao láo, cô lắng nghe
tiếng súng cứ liên tục nổ. Nhưng rồi mệt quá, mọi người thiếp dần, bởi thức mãi
mấy đêm qua, ai cũng kiệt sức, không chống nổi với cơn buồn ngủ.
Tinh mơ, súng càng nổ dữ
dội. Mai vội vàng nấu cơm để cho các em ăn.
Cơm chưa cạn thì lửa bốc rực trời khu xóm trong. Người ta ùa ra như kiến trong tổ bị động. Tiếng người gọi nhau ơi ới… Mẹ Hòa thu dọn vài bộ áo quần tôn tốt, đập tan con heo đất cất tận đáy rương, cho tất cả vô một cái va li nhỏ và giục các con : “Coi có gì tiện gọn lấy đi” Mai nhìn quanh ngơ ngẩn, thở dài :
Cơm chưa cạn thì lửa bốc rực trời khu xóm trong. Người ta ùa ra như kiến trong tổ bị động. Tiếng người gọi nhau ơi ới… Mẹ Hòa thu dọn vài bộ áo quần tôn tốt, đập tan con heo đất cất tận đáy rương, cho tất cả vô một cái va li nhỏ và giục các con : “Coi có gì tiện gọn lấy đi” Mai nhìn quanh ngơ ngẩn, thở dài :
- Con đâu có gì ? Chỉ có
cái máy may…
- Máy may làm sao đem đi
được, con này giỡn quá !
- Trời ơi ! Súng nổ như vậy
mà còn ngồi đó, bộ ưng chết sao chớ ?
Cai Bình đi ngang, hét chõ vào nhà làm mẹ con Hòa càng cuống quít. Khi bốn mẹ con ra đến hiên thì súng nổ càng sát sạt hơn. Đoàng đoàng, tạch tạch, ầm ầm, xoàng xoàng… Quái ! Sao như súng nó cứ chĩa vô xóm mà nã vậy kìa ? Tiếng chân chạy thình thịch, tiếng la khan, tiếng kêu cứu, tiếng rên rỉ… quang cảnh hỗn độn lạ lùng. Mẹ con Hòa hoang mang kinh hãi, không còn biết tính toán chi cả, chạy tràn theo làn sóng người cuồn cuộn tuôn ra đường lớn.
Cai Bình đi ngang, hét chõ vào nhà làm mẹ con Hòa càng cuống quít. Khi bốn mẹ con ra đến hiên thì súng nổ càng sát sạt hơn. Đoàng đoàng, tạch tạch, ầm ầm, xoàng xoàng… Quái ! Sao như súng nó cứ chĩa vô xóm mà nã vậy kìa ? Tiếng chân chạy thình thịch, tiếng la khan, tiếng kêu cứu, tiếng rên rỉ… quang cảnh hỗn độn lạ lùng. Mẹ con Hòa hoang mang kinh hãi, không còn biết tính toán chi cả, chạy tràn theo làn sóng người cuồn cuộn tuôn ra đường lớn.
Bỗng Mai nhớ lại là chưa
kịp khoá cửa sau. Cô nói với mẹ :
- Mẹ với hai đứa chạy trước
đi, con phải về khoá cửa sau lại đã.
- Thôi. Không được đâu con,
chạy đi…
Nhưng mẹ chưa dứt lời Mai
đã ù chạy về nhà. Hoà cũng nói :
- Để con về với chị Mai.
Và không đợi mẹ có bằng
lòng không, nó chạy theo chị liền. Mẹ Hoà sửng sốt, bà không kêu được một
tiếng, lặng người nhìn lửa cuồn cuộn loang ra, trông như có pha dầu.
Từng mái nhà ngùn ngụt bốc cháy, vèo một nhoáng đã hoá ra than đỏ. Tiếng nổ của súng có lúc chợt thưa đi, nhưng tiếng nổ của tre nứa, của đồ vật trong nhà thì càng dồn dập, nghe bong bóc, bong bóc…
Từng mái nhà ngùn ngụt bốc cháy, vèo một nhoáng đã hoá ra than đỏ. Tiếng nổ của súng có lúc chợt thưa đi, nhưng tiếng nổ của tre nứa, của đồ vật trong nhà thì càng dồn dập, nghe bong bóc, bong bóc…
Lửa phừng phừng, vút cao,
lan rộng. Mẹ Hòa như mê đi, há hốc miệng nhìn những lưỡi lửa liếm ngoem ngoém
một cách tham lam khủng khiếp… Còn hung hãn, tàn tệ hơn ác thú : lửa không
nhai, nó chỉ táp qua một cái là tất cả các con mồi nát tan, biến dạng tức thì !
Gạch, ngói, tôn, cây, gỗ, bàn ghế, chăn màn…
Mà sao hai đứa con đi lâu
quá ? Người mẹ cuống cuồng lên, bà không thể chia mình ra làm hai được. Bà
không thể bỏ Bé đứng một mình để trở về tìm. Song bà cũng cố dỗ dành con :
- Con cứ đứng đây một chút,
để mẹ về tìm anh Hòa với chị Mai…
- Không, con sợ lắm ! Mẹ
đừng bỏ con…
Bé níu cứng tay mẹ, bà
không rứt ra được. Nhìn quanh, chợt thấy bà Năm, mẹ Hoà mừng quá, vội vàng du
Bé lại :
- Bà cho con gởi cháu… tụi
nhỏ kẹt trong lửa…
- Chớ sao không dắt chạy
một lần ?
- Khổ quá, đã chạy ra rồi
chớ, mà…
Có bà Năm, Bé chịu để mẹ
đi. Mẹ Hòa giao cái va li cho bà Năm giữ hộ luôn, băng mình chạy…
Lửa vẫn bốc rực trời, khói cay cả mắt. Hai dãy nhà, trong đó có nhà mẹ Hòa, đã làm mồi cho ngọn lửa. Chẳng thấy bóng dáng lũ con đâu. Chung quanh toàn lửa.
Vài người kêu khóc, tay chới với về phía nhà mình, có người lắp bắp mấy tiếng đẫm nước mắt : “Con tôi, con tôi… “ làm mẹ Hòa càng thất đảm.
Lửa vẫn bốc rực trời, khói cay cả mắt. Hai dãy nhà, trong đó có nhà mẹ Hòa, đã làm mồi cho ngọn lửa. Chẳng thấy bóng dáng lũ con đâu. Chung quanh toàn lửa.
Vài người kêu khóc, tay chới với về phía nhà mình, có người lắp bắp mấy tiếng đẫm nước mắt : “Con tôi, con tôi… “ làm mẹ Hòa càng thất đảm.
Một toán lính trên toà lầu
của hẻm trong, lăm lẳm chĩa súng xuống đám người khốn khổ, quát đuổi dồn :
- Mấy người kia, đi ra !
Mau !
Song không ai tuân lệnh. Họ
cũng như mẹ Hòa, lạc con, cháy sạch cửa nhà, đã trở thành những người mất trí.
Sau cùng, vài người lính phải xuống, vừa doạ, vừa dỗ dành dìu họ đi ra. Mẹ Hòa
đi giật lùi, mắt vẫn đăm đắm nhìn biển lửa sau lưng… Không lẽ trời ác đến thế ?
Chồng bà đã chết rồi… nếu quả hai con bà… nhưng kìa, có phải bà hoa mắt không ?
Bà chớp mau mắt định thần nhìn kỹ : trong con hẻm nhỏ, hai con bà đang dìu nhau
chạy ra, Mai tóc tai bơ phờ, một bên vai áo rách sả, còn Hòa thì nhem nhuốc
những tro than. Nom thấy mẹ, cô gái oà ra khóc : “Mẹ ! Cái máy của con… “
Người mẹ mừng quá, tưởng
như hai con từ cõi chết được hồi sinh, bà ríu lưỡi lại sà đến ôm chặt hai con.
Giây lâu, bà mới lau nước mắt, thổn thức :
- Mẹ biết ! Mẹ biết ! Cháy
hết rồi, cả nhà, cả máy… Nhưng phải cảm ơn Trời ! Mẹ con mình phải cảm ơn Trời…
Mai vùng ra khỏi tay mẹ, mở
to mắt, tức tối :
- Cảm ơn gì ? Cháy tiêu tan
hết mà mẹ biểu cảm ơn ?
Người mẹ đã bình tĩnh lại,
giọng bà tin tưởng :
- Mình không mất hết : mẹ
còn có các con. Rồi mình gầy dựng lại, con đã hiểu chưa ?
Mình còn đủ tay chân…
Mai chưa hiểu, hay nói cho
đúng, cô không chịu hiểu theo ý mẹ. Nhưng Hoà thì hiểu. Nó tìm
mãi không ra một câu gì để làm chị bật cười, và nó vụt nhớ đến chuyện cái xe
đạp cha hứa cho mình, Hòa nhìn chị nói :
- Thôi, chị đừng tiếc, tiếc
cũng không còn. Chị coi, em không có xe đạp đây mà em có buồn đâu ? Hai chị em
bây giờ bình đẳng , đều không có gì hết, tốt hơn ! Chừng em có
tiền, em sẽ mua cho chị máy may trước, chịu không ?
- Thằng yêu ! Như thế này
mà… còn giỡn được, tao chịu mày…
Mai nhoẻn cười, mắt vẫn còn
long lanh ướt. Mẹ nói :
- Thôi, đi ra kẻo con Bé nó
khóc, nó đợi ngoài kia !
Ba mẹ con nhìn lại biển lửa
lần chót rồi bước mau. Chưa biết đi đâu. Cứ đi về hướng an toàn trước mặt. Họ
không kêu ca, oán hận, khóc lóc nữa, vì trời còn rũ lòng thương : họ được đoàn
tụ, nguyên lành . Thế là quí lắm rồi.
Phía sau họ, lửa vẫn tung
hoành, tàn phá. Tiếng nổ của súng đạn, của tre nứa, của vật dụng vẫn liên tục,
không ngừng…
MINH QUÂN 1972
Nguồn:Tổng hợp