Ngày Hòa Bình Thế Giới lần thứ 46
Ngày Hòa Bình Thế Giới lần thứ 46
Giáo Hoàng Biển Đức 16
Ngày 1-1-2013 vừa qua ,” Ngày Hòa Bình Thế
Giới lần thứ 46”, Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã gửi đến cho chúng ta sứ điệp có
chủ đề : Phúc Cho Những Ai Kiến Tạo Hòa Bình”
Năm mới mang lại cho con người ta niềm hy
vọng về một thế giới càng tốt đẹp hơn. Nguyện xin Thiên Chúa là Cha của tòa thể
nhân loại ban cho con cái Ngài sự hòa thuận và an vui để kiến tạo nên một nền
hòa bình thịnh vượng trong tương lai tươi sáng.
Công Đồng VaticanII sau gần 50 năm qua giúp
chúng ta đào sâu sứ mạng Giáo hội trong thế giới , Giêsu hữu, là con dân của
Thiên Chúa Cha, hãy bước chân theo Chúa Giêsu sống giữa đời sống xã hội, dấn
thân để chia sẻ vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng, khi mỗi người trong
chúng ta công bố ơn cứu độ Đức Giêsu Kitô và thăng tiến hòa bình cho nhân loại.
Sự toàn cầu hóa có những mặt tích cực và
tiêu cực ,dẫn đến xung đột bạo lực cùng những đe dọa chiến tranh, sự cách biệt
giữa giàu nghèo, khủng bố và tội ác quốc tế. Tuy nhiên vẫn còn có rất nhiều
người xây dựng hòa bình, vì nó đem đến sự phát triển của cộng đồng và xã hội.Những điều kể trên đã để cho Đức Giáo Hoàng chọn chủ đề Sứ
điệp năm nay từ những lời của Đức Giêsu: ‘Phúc
thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa’ (Mt 5,9).
Đức
Kitô khai mạc sứ vụ bằng “Bài giảng trên núi” hay còn
gọi là Tám phúc lành, tin tốt lành, (Tin Mừng). Đây không chỉ là những khích
lệ về mặt luân lý, cổ vũ chúng ta tuân giữ để thấy trước phần thưởng hay những
vị thế hạnh phúc trước tương lai. Trong con mắt người đời, những người tin
tưởng vào Thiên Chúa như thế thường bị xem là kẻ khờ khạo và xa rời thực tế.
Tuy nhiên, Đức Giêsu nói cho họ rằng, không chỉ ở đời sau nhưng ngay tại đời
này, họ đã ra mình là con cái Thiên Chúa, Ngài đã, đang và sẽ mãi ở bên cạnh
họ. Loài người cần biết mình không lẻ loi, bởi vì Thiên Chúa là đồng minh với
những con người dấn thân cho chân lý, công bình và bác ái.
Mối phúc
lành mà Đức Giêsu nói cho chúng ta biết hòa bình là một món quà của Thiên Chúa
nhưng đồng thời cũng là hoa trái phát sinh thông qua nỗ lực của con người. Thực
tế, hòa bình là một sự phong phú mang tính hai mặt - một quà tặng có nguồn cội
nơi Thiên Chúa, chúng ta có thể sống cùng và sống cho người tha nhân. Nền đạo
đức của hòa bình là đạo đức của tình liên đới và chia sẻ. Điều tuyệt đối cần
thiết là những nền văn hoá thời này cần vượt qua các hình thức nhân loại học và
đạo đức dựa trên những giả định chỉ mang tính chủ quan và thực dụng, nơi đó mối
tương đồng tồn tại được gợi hứng bởi các tiêu chuẩn về quyền lực ích lợi,
phương tiện trở thành cùng đích chứ không phải ngược lại, văn hóa và giáo dục
chỉ đơn thuần tập trung vào thiết bị, kỹ thuật và hiệu quả.
Đức
Giáo Hoàng nhấn mạnh: « Điều kiện cần thiết để có hòa bình là sự xóa bỏ chế độ
độc tài của chủ nghĩa tương đối và của một giả định về nền luân lý hoàn toàn tự
trị vốn không thừa nhận luật luân lý tự nhiên, được Thiên Chúa ghi khắc trong
lương tâm mỗi người nam và người nữ. Hòa bình cần được xây dựng trên sự đồng
hiện diện của những thuật ngữ lý trí cũng như luân lý, được đặt trên nền tảng những tiêu chuẩn
vốn không phải do con người tạo nên, mà do Thiên Chúa. Thánh Vịnh 29 (câu 11)
nói rằng: Xin Gia-vê ban uy lực cho dân Người, Gia-vê chúc lành cho dân Người
bình an ».
Hòa
bình là một trật tự được sống động và hòa hợp bởi đức ái, trong đó chúng ta cảm
thấy nhu cầu tha nhân cũng là của chính mình và chia sẻ thiện ích với tha nhân
và cộng tác cho thế giới một sự hiệp thông lớn hơn về những giá trị tinh thần.
Hòa bình là một giá trị đạt được trong tự do, tức phù hợp với phẩm giá con
người, với bản chất của mình như là những hữu thể có lý trí, con người chịu
trách nhiệm cho hành động mình.
Con
đường đạt đến thiện íchchung cho hòa bình trên hết cần phải tôn trọng phẩm giá
con người trong mọi thời đại, từ khi thụ- thai, thông qua sự phát triển, cho
đến cái chết tự nhiên. Người kiến tạo hòa bình đích thực là người yêu mến, bảo
vệ và thăng tiến sự sống con người trong sự toàn vẹn của nó, cá nhân, cộng đoàn.
Để kiến tạo hòa bình, các hệ thống pháp luật phải công nhận quyền sử dụng
nguyên tắc phản kháng lương tâm trước những luật lệ và biện pháp của chính
quyền chống lại phẩm giá con người như phá-thai và làm cho chết êm dịu.
Gia
đình là cái nôi của sự sống để con người sống trong an bình hạnh phúc, nên gia
đình cần được kiến tạo và thăng tiến hòa bình, để từ mỗi gia đình cá thể đi đến
đại gia đình nhân loại. Cần phải nhìn nhận và thăng tiến cơ cấu tự nhiên của
gia đình, là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ. Ngoài ra, xã hội
phải tôn trọng quyền bình đẳng lao-động và nghề nghiệp. Phẩm giá con người và
các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội, đòi hỏi chúng ta tiếp tục ‘ưu tiên mục
tiêu tạo ra việc làm ổn định cho mọi người’ phải có cái nhìn mới về lao động,
dựa trên những nguyên tắc đạo đức và những giá trị tinh thần, xem khái niệm lao
động là thiện ích cơ bản đối với cá nhân, gia đình và xã hội.
Để
thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh- tài [1] như hiện nay đang đưa đến sự bất bình
đẳng ngày càng lớn hơn trên toàn cầu, chúng ta cần có những con
người, nhóm người và các thể chế thăng tiến sự sống, cổ võ cho sự sáng tạo của
con người. Vì bên cạnh những khả năng tri thức và nghề nghiệp, sự phát triển
kinh tế nhân bản đích thực và sống động còn cần là nguyên tắc và ý nghĩa của
quà tặng được biểu lộ như tình huynh đệ. Cụ thể, trong lĩnh vực kinh tế, người
kiến tạo hòa bình là người thiết lập nên mối dây công bình và tương trợ lẫn
nhau nơi các công ty, công nhân, khách hàng và người tiêu thụ. Họ dấn thân vào
hoạt động kinh tế vì thiện ích cho nhân loại.
Đức
Biển Đức 16 mạnh
mẽ xác tín rằng những người kiến tạo hòa bình được mời gọi để nuôi dưỡng một
lòng khao khát dành cho thiện ích của gia đình và công bình xã hội, đồng thời
dấn thân một cách hiệu quả vào lãnh vực giáo dục xã hội. Vai trò gia đình tiên-
quyết [2] vì là tế bào nền tảng của xã
hội theo quan điểm nhân khẩu học, đạo đức, kinh tế, giáo dục và văn hóa. Ơn gọi
tự nhiên gia đình là thăng tiến đời sống: Gia đình đồng hành với mỗi cá nhân
cho đến khi họ trưởng thành và khuyến khích một sự phát triển hỗ trợ và phong
phú bằng sự chăm sóc yêu thương và sẻ chia. Các cộng đoàn tôn
giáo cũng góp phần cách đặc biệt trong nhiệm vụ giáo dục hòa bình. Giáo hội
chia sẻ trách nhiệm này qua sứ vụ Phúc Âm , đặt trọng tâm vào trong việc hoán
cải với chân lý tình yêu Đức Kitô, để nhận kết quả dẫn đến một cuộc tái
sinh về luân lý và thiêng liêng nơi các cá nhân và cộng đoàn xã hội. Các thể
chế giáo dục và văn hóa cũng như các học đường (từ mầm non đến đại học) mang
trọng trách đặc biệt về giáo dục hòa bình.
Khoa sư phạm về hòa bình cần phải có một
đời sống nội tâm phong phú, những quan điểm luân lý rõ ràng về giá trị, thái độ
lối sống phải thích hợp. Những hoạt động kiến tạo hòa bình luôn đem lại những
thành tựu về công ích cho xã hội, nên con người cần phải liên tiếp hoạt động và
bồi dưỡng nó. Qua các suy nghĩ, lời nói, cử chỉ hòa bình thường tạo ra một tâm
thức của một nền văn hóa hòa bình trong bầu khí tôn trọng, yêu thương và thân
ái.
Hồi tưởng !!!!!!!!!!!!!!
Thời Bảo Đại !!!!!!!!!
TT Ngô Đình Diệm
Sau
khi Quốc Trưởng Bảo Đại trao cử vào chức vụ Thủ tướng toàn quyền dân sự và quân
sự để có thể đối phó với tình hình cực kỳ khó khăn thời ấy, ngày 26.06.1954, ông Ngô
Đình Diệm trở về Sài gòn, cùng với hoàng thân Bửu Lộc, Thủ tướng xuất nhiệm, để
bàn giao quyền hành.
Chánh
phủ Bửu Lộc chỉ giao dinh Gia long và với năm bảy chiếc xe cũ kỹ, với một tiểu
đội cảnh sát canh gác. Ông Diệm đi Hà nội để xem xét tình hình và mời chánh
khách miền Bắc tham gia chánh phủ. Nội các được trình diện quốc dân đồng bào
ngày 07.07.1954. Trong đó, ông Diệm là Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng và
Nội vụ. Tuy nhiên, ông không có trong tay Quân đội (Tướng Nguyễn văn Hinh, Tham
mưu trưởng, nắm giữ) và Lực lượng cảnh sát do Bình Xuyên chỉ huy.
Ngày
20.07.1954, Hiệp định Genèvre đình chỉ chiến sự tại Việt Nam được ký bởi đại
diện của hai lực lượng quân sự là Thiếu tướng Delteil (Pháp) và Tạ Quang Bửu
(Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) có nội dung chính như sau: Ngừng bắn trên toàn
chiến trường Đông Dương: chia đôi Việt Nam tại Sông Bến Hải, vĩ tuyến 17 và dân
chúng được tự do đi lại giữa 2 miền trong 300 ngày. Dù bị cộng sản Bắc
Việt dùng
mọi cách để chận đứng đồng bào vào Nam, trên 800 ngàn người cũng đã di cư vào
Miền Nam.
Bằng
những biện pháp thật Hoà bình nhưng cương quyết để tái lập Độc Lập cho Việt
Nam, Thủ tướng Ngô Đình Diệm phải tiến hành thu Chủ Quyền cho Tổ quốc : Tiếp
thu Dinh Norodom (nơi Cao ủy Pháp đại diện chính phủ Pháp ngự để ‘cai trị’ vùng
đất thuộc địa), độc lập về tài chính từ ngày 02.01.1955 và ngoại giao từ
20.06.1955, khi Cao ủy Pháp Paul Ély mãn nhiệm và về Pháp, Thủ tướng Diệm yêu
cầu Pháp chỉ cử Đại sứ và phải được Việt Nam chấp nhận trước. Quân nhân Pháp
cuối cùng rời lãnh thổ Việt Nam ngày 28.04.1956.
Tuy
gặp nhiều khó khăn, nhưng việc dành quyền tư lệnh Quân đội vẫn trong Hòa bình.
Rất tiếc, chỉ việc nắm lại quyền chỉ huy Cảnh sát và đóng cửa sòng bạc Đại Thế
Giới và khu mãi dâm tại Bình khang của ông Lê văn Viễn (Bảy Viễn), cầm đầu Bình
Xuyên, một nhóm võ trang. Do đó, họ đã pháo kích vào Dinh Độc lập và Bộ Tổng
Tham mưu Quâân đội và Quân đội đã phản công và tiêu điệt nhóm này. Các giáo
phái Cao đài và Hòa hảo (chống cộng sản vô thần) lần lượt về hợp tác với Chánh
phủ. Trong lúc phải đối phó thành công với bao khó khăn đó, chánh phủ Ngô Đình
Diệm còn phải xúc tiến việc tiếp nhận và định cư đồng bào di cư từ miền Bắc.
Chánh phủ và đồng bào cùng nổ lực khai khẩn đất hoang để biến những nơi đây
thành những nơi phát triển trù phú, gia đình sống trong hạnh phúc. Quyền sở hữu
đất được cấp phát và tôn trọng.
Trước
những thành quả đó, ngày 29.04.1955, đại diện 18 chánh đảng và đoàn thể cùng 34
nhân sĩ ký tên Kiến nghị Truất phế Quốc trưởng Bảo Đại. Nghe đến ‘Truất phế
Quốc trưởng Bảo Đại’, mặt ông Diệm biến sắc, lặng người, rồi cố gắng lấy lại
bình tĩnh và nói : « Xin quí ngài cho tôi… có thời giờ suy nghĩ kỹ về vấn đề
trọng đại này! Xin cám ơn quí ngài! ». Ngày 23.10.1955, qua Trưng cầu dân ý, cử
tri ‘truất phế Bảo Đại và chọn ông Ngô Đình Diệm như Tổng thống để thành lập
chế độ cộng hòa’ và ngày 26.10.1955, ông Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập nền
Cộng hòa Việt Nam và trở thành Tổng thống. Quốc hội Lập Hiến thông qua Hiến
pháp và được Tổng thống ban hành ngày 26.10.1955. Từ đó, người đân Việt Nam
Cộng hòa được sống trong những năm Hòa bình…
Chánh
sách mở rộng đất canh tác qua kế hoạch Dinh điền chủ yếu chú trọng đến Cao
nguyên Trung phần và khu vực Phước Long với 90 trung tâm phát triển ruộng đất được
thành lập nhằm đưa dân từ miền duyên hải lên lập nghiệp. Từ năm 1957 đến 1961,
chính phủ đã định cư 210.000 người từ miền xuôi lên và khai hoang 89.000 hecta
đất rừng. Ngày 22.10.1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành Dụ số 57 quy định
chủ điền chỉ được giữ tối đa là 100 ha, trong đó 30 ha phải trực canh và 70 ha
còn lại có thể cho tá điền thuê theo quy chế tá canh. Diện tích quá 100 ha luật
định phải bán lại cho người không có đất. Chính phủ bồi thường số đất bị truất
hữu (tước quyền sở hữu) cho chủ điền bằng 10% tiền mặt và 90% công trái phiếu
hạn 12 năm. Tá điền có quyền mua trả góp đất của chính phủ với giá tiền chính
phủ bồi thường chủ điền. Vốn và lãi trả trong vòng 12 năm với lãi suất 3%/năm.
Diện tích đất tối đa một người nông dân được mua là 5 ha.
Dominickumar