Khái Hưng (1896-1947)
Khái Hưng (1896-1947)
Tiểu
sử
Khái Hưng tên thật là Trần Khánh Giư, bút hiệu khác Nhị
Linh, sinh năm 1896 tại làng Cổ Am, phủ Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương. Con trai Tuần
phủ Trần Thế Mỹ, và là anh ruột Trần Tiêu. Thuở nhỏ học chữ nho, rồi theo Tây
học (lycée Albert Sarraut, có nơi ghi Paul Bert). Sau khi đậu tú tài Pháp, ban
triết, Khái Hưng dậy ở tư thục Thăng Long, ở đây ông gặp Nhất Linh. Khái Hưng
kết hôn với bà Lê Thị Hoà (con tổng đốc Lê Văn Đính) bút hiệu Nhã Khanh. Gia
đình Khái Hưng không có con, Nhất Linh cho con trai là Nguyễn Tường Triệu làm
con nuôi từ nhỏ: Trần Khánh Triệu.
Khái Hưng viết cho Phong hoá, từ khi tờ
báo còn do Phạm Hữu Ninh hiệu trưởng Thăng Long chủ trương. Năm 1932, Nhất Linh
mua lại Phong hoá. 1933, thành lập Tự Lực văn đoàn.
1933, xuất bản Hồn bướm mơ tiên. 1936, Phong Hoá bị đóng cửa. Ngày
Nay, đã ra từ trước, tiếp tục.
1939, Tự Lực Văn Đoàn nghiêng sang đấu tranh chính trị. Nhất
Linh lập đảng Hưng Việt, sau đổi thành Đại Việt dân chính. 1940, Khái Hưng và
Hoàng Đạo sang Tàu liên lạc với các đảng cách mệnh khác, cuối năm trở về nước.
1941, Khái Hưng, Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí bị Pháp bắt tại Hà Nội, bị đưa lên
trại giam Vụ Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Thạch Lam và Nguyễn Tường Bách
tiếp tục quản trị tờ Ngày Nay. Cuối năm 1941, Ngày Nay bị đóng cửa.
1942 Nhất Linh chạy sang Quảng Châu. Tháng 7/1942, Thạch Lam
mất. 1943, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí được đưa về quản thúc tại Hà
Nội. Nhất Linh ra lệnh sát nhập Đại Việt dân chính vào Việt Nam quốc dân
đảng. Ngày 5/3/45 Ngày Nay tục bản khổ nhỏ: Ngày nay kỷ nguyên mới do
Khái Hưng cùng Nguyễn Tường Bách phụ trách.
19/8/1945 Việt minh lên nắm chính quyền. 2/9/45 thành
lập chính phủ lâm thời.Ngày nay kỷ nguyên mới bị đóng cửa. Tháng
9/1945, Nguyễn Tường Bách và Khái Hưng chủ trương nhật báo Việt Nam
thời báo, đường lối trung lập. Quốc gia và cộng sản tạm thời cộng tác.
Tháng 11/45 Nhất Linh về nước. Tham gia chính phủ liên hiệp, giữ ghế bộ trưởng
ngoại giao, cầm đầu phái đoàn dự hội nghị Đà Lạt. Nhưng ông từ chối chức trưởng
phái đoàn đi hội nghị Fontainebleau. Tháng 6/1946, Nhất Linh sang Tàu.
Việt Nam thời báo đổi
thành Việt Nam «cơ quan ngôn luận của Việt Nam quốc dân đảng»,
đối lập với chính quyền, Khái Hưng, Hoàng Đạo và Nguyễn Tường Bách viết bài đả
kích chính sách của Việt Minh. Từ tháng 2/46, một mình Khái Hưng trách nhiệm cơ
quan tuyên truyền của đảng. Hoàng Đạo và Nguyễn Tường Bách sang Trung Hoa. Khái
Hưng tiếp tục viết trên Chính Nghĩa, một cơ quan ngôn luận khác của
Việt Nam quốc dân đảng do Lê Ngọc Chấn chủ trương.
Ngày 19/12/1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Khái Hưng
cùng gia đình tản cư về Nam Định. Ông bị Việt Minh bắt và bị thủ tiêu năm 1947.
Tác
phẩm đã in :
Truyện
dài: Hồn bướm mơ tiên (in 1933), Gánh hàng hoa (viết
chung với Nhất Linh, 1934), Nửa chừng xuân (1934), Đời
mưa gió (viết chung với Nhất Linh,1934), Trống mái (1936), Gia
đình (1938), Thoát Ly (1939), Thừa tự (1940), Tiêu
Sơn tráng sĩ(1940) Đẹp (1941), Băn khoăn (1943).
Truyện
ngắn: Dọc đường gió bụi (1936), Anh phải sống (viết
chung với Nhất Linh, 1937), Tiếng suối reo (1937), Đợi
chờ (1939), Hạnh (1940), Đội mũ lệch (1941), Số
đào hoa (1962), Cái ve...
Kịch: Tục
lụy (1937), Đồng bệnh (1942), Khúc tiêu ai
oán (1969).
Từ Hồ Biểu Chánh đến Khái Hưng
Khi
Nguyễn Văn Trung công bố văn bản Thầy Lazaro Phiền năm 1987,
tác phẩm của Nguyễn Trọng Quản nghiễm nhiên trở thành tiểu thuyết quốc ngữ sớm
nhất viết theo lối Tây phương, xuất hiện một trăm năm trước (1887) ở Nam Kỳ.
Những lập luận vẫn coi Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách (viết 1922,
in 1925) là tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên không còn đứng vững.
Công
trình nghiên cứu Lục châu học của Nguyễn Văn Trung dẫn đến
việc nhìn lại chức năng khai phá của vùng Lục Tỉnh trong nền văn học quốc ngữ,
và định vị lại vai trò của Nguyễn Trọng Quản như nhà văn quốc ngữ đầu tiên, và
Hồ Biểu Chánh như nhà văn tiên phong xây dựng nền tiểu thuyết hiện đại Việt Nam
(với tác phẩm Ai làm được, viết ở Cà Mau năm 1912, in năm 1922
ở Sài Gòn). Từ những mốc mới này, sự phân chia các thời kỳ tiểu thuyết Việt
Nam, có lẽ nên sắp xếp như sau:
1887-1912:
Từ Nguyễn Trọng Quản Thầy Lazaro Phiền đến Hồ Biểu Chánh Ai
làm được: thời kỳ phôi thai của tiểu thuyết quốc ngữ.
1912-1932:
Từ Hồ Biểu Chánh Ai làm được đến Khái Hưng Hồn
Bướm Mơ Tiên: Thời kỳ hình thành tiểu thuyết hiện đại.
1932-1946:
Từ Khái Hưng Hồn Bướm Mơ Tiên đến Chùa đàn của
Nguyễn Tuân: thời kỳ toàn thịnh của tiểu thuyết hiện đại.
***************************
Dưới
nhãn quan như thế, chúng tôi muốn nhìn Khái Hưng như một nhà văn tiếp nối Hồ
Biểu Chánh trên đường phát triển tiểu thuyết hiện đại bình dân. Hồ
Biểu Chánh là người đầu tiên đã đưa hư cấu vào tiểu thuyết, bỏ
lối truyện chương hồi theo kiểu Tàu, thay lối văn biền ngẫu bằng tiếng Việt
bình dân. Hổ Biểu Chánh đi trước khai phá và mở rộng tiếng Việt miền Nam. Khái
Hưng đi sau, dùng tiếng Bắc để hoàn chỉnh lộ trình hiện đại hoá tiểu thuyết
Việt Nam.
Nếu
so sánh tiếng Việt trong tiểu thuyết Bắc từ Tố Tâm của Hoàng
Ngọc Phách (1922-1925) đến Hồn Bướm Mơ Tiên (in trên Phong Hoá
năm 1932), là tác phẩm đầu tay của Khái Hưng, văn chương quốc ngữ đã đi một
chặng đường dài.
Hồn
Bướm Mơ Tiên, được độc giả và giới phê bình thời ấy đón nhận nồng nhiệt và
cũng gây tranh luận. Trên Phụ Nữ Thời Đàm, số tháng giêng năm 1934, trong
bài «Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng, một sự công kích không chính đáng
của báo Nhật Tân», Trần Thanh Mại viết: "Hồn Bướm Mơ Tiên
thì ngót vạn người đã đọc nó hồi nó còn ra từng đoạn ngắn ở trong báo Phong
Hóa. Sau khi in thành sách, các báo quốc âm lại đua nhau phê bình, dù sự phê
bình ấy chung quy không thoát ra ngoài cốt truyện." Và ông tiên
đoán: "sau này quyển Hồn Bướm Mơ Tiên sẽ là một quyển sách bất hủ:
Cái văn thể, cách dàn cảnh và phô diễn tâm lý của những vai chủ động".
Điều đáng chú ý nữa là cuối bài viết của Trần Thanh Mại, còn có lời phụ của
Phan Khôi: "Đêm 8 janvier vừa rồi lạnh quá, tôi đọc nó [Hồn Bướm
Mơ Tiên] từ 12 giờ cho đến 2 giờ sáng. Xong rồi, ngủ không được, tôi cứ làm như
là hối hận về việc gì mãi. Tôi mới ngồi dạy, định thần, xét lấy tâm lý mình,
thì ra nó làm cho tôi thấy tôi là người phàm tục, dơ bẩn, nhỏ nhen, rồi tự thẹn
lấy mình, áy náy khó chịu, bức rức lâu lắm mới ngủ yên được.[...]
Ước
được rỗi công việc, có những sách hay như thế để thường ngày thường đọc, thì
tôi tưởng tâm tình con người ta cũng một ngày một trở nên tốt. Tốt đây, tôi
muốn nói như là cao thượng.
Như
thế, ông Khái Hưng, tác giả cuốn sách ấy, chẳng là cao thượng lắm!"
Nhận
xét của Phan Khôi luôn luôn độc đáo.
Tính chất cao thượng của Hồn
Bướm Mơ Tiên mà Phan Khôi đề cập, trải dài trong toàn bộ tác phẩm và
đó cũng là khía cạnh chính trong tâm hồn Khái Hưng:Cao thượng.
Cao
thượng chứ không phải lý
tưởng, như Vũ Ngọc Phan đã từng nhận định.
Những
con người cao thượng, những tình cảm cao thượng, tuy hiếm, nhưng vẫn có.
Còn
những người lý tưởng, những điều lý tưởng chỉ mới là những nguyện ước sẽ trở
thành.
Hồn
bướm mơ tiên là tác phẩm nói lên tâm hồn
cao thượng của tác giả. Và Khái Hưng là một người cao thượng, có thật, xuyên
qua toàn bộ tác phẩm.
Hồn
Bướm Mơ Tiên, là bản tuyên ngôn nghệ thuật và tư tưởng của Tự Lực Văn
Đoàn, trực tiếp viết bằng tác phẩm văn chương, bằng thứ tiếng Việt
trong sáng với những tư tưởng đi trước thời đại. Tuyên
ngôn nghệ thuật và tư tưởng này sẽ được khai triển trong Nửa Chừng Xuân và
tiếp nối không ngừng trong Anh phải sống (viết chung với Nhất
Linh), Trống Mái, Đợi chờ, Đời mưa gió (viết chung với
Nhất Linh)... Xin nhắc lại Hồn Bướm Mơ Tiên và Nửa
Chừng Xuân (in năm 1933 và 1934) nhưng đã được viết và đăng trên Phong
Hoá, trước khi Tự Lực Văn Đoàn thành lập.
Bản
tuyên ngôn chính thức của Tự Lực văn Đoàn, trên Phong Hóa số 87, ngày 2/3/1933,
gồm mười điểm:
1.
Tự mình sáng tác chứ không phiên dịch sách nước ngoài.
2.
Chỉ soạn hoặc dịch những sách có tư tưởng xã hội.
3.
Theo chủ nghĩa bình dân.
4.
Dùng lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho.
5.
Mới mẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và có sự tiến bộ.
6.
Ca tụng những cái hay, vẻ đẹp của nước, một cách bình dân, khiến cho người khác
đem lòng yêu nước. Không có tính cách trưởng giả, quý phái.
7.
Tôn trọng tự do cá nhân.
8.
Làm cho người ta biết rằng Đạo Khổng không còn hợp thời nữa.
9.
Đem phương pháp khoa học thái tây ứng dụng vào văn chương Việt Nam.
10.
Chỉ cần theo một trong chín điều này cũng được, miễn là đừng làm trái ngược với
những điều khác.
Tóm
lại, tôn chỉ của Tự Lực Văn Đoàn có thể đúc kết trong bốn điểm mấu chốt :
Sáng
tạo - Cải tiến xã hội - Tự do cá nhân và Chủ nghĩa bình dân.
Nhưng
khi nói về Tự Lực Văn Đoàn, dường như người ta chỉ chú ý đến ba điểm đầu, mà
thường bỏ rơi điểm thứ tư: Theo chủ nghĩa bình dân. Vì bỏ rơi điểm
này, cho nên những người nhận định văn học ở miền Bắc thường có thói quen phân
chia rạch ròi hai loại nhà văn: Một bên là Tự Lực Văn Đoàn, thuộc giai cấp
trưởng giả, “bế tắc”; một bên là những nhà văn khác như Ngô Tất Tố, Nguyên
Hồng, Nam Cao... thuộc khuynh hướng vô sản, “tiến bộ”. Sự phân chia như thế,
ngoài tính cách lý lịch, còn chứng tỏ có nhầm lẫn lớn giữa đối tượng
miêu tả với tư tưởng nhà văn.
Đúng
là các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn phần lớn đều sinh trưởng trong môi trường
trưởng giả. Họ viết về môi trường trưởng giả, nhưng không phải để bênh
vực mà để đả phá môi trường này. Vì họ là những người trong cuộc, nhất là
Khái Hưng, nên biết rõ tác hại cộng hưởng của chức quyền, tiền bạc, và nho giáo
cuối mùa. Tác dụng đả phá xã hội trưởng giả nơi Tự Lực Văn Đoàn không thua gì
tác dụng đả phá những bất công xã hội ở Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyên Hồng...
trong Tắt Đèn, Chí Phèo, Bỉ Vỏ...
Tác
phẩm của Tự Lực Văn Đoàn vì vậy, có tính chất hiện thực mô tả và phê phán xã
hội tương đương với những tác phẩm khác cùng thời, nhờ vậy mà ngày nay, khi đọc
lại toàn bộ tác phẩm của những nhà văn miền Bắc (trong và ngoài Tự Lực) ta thấy
được toàn cảnh xã hội miền Bắc cũng như khi đọc Hồ Biểu Chánh,
chúng ta biết được toàn bộ xã hội miền Nam, nửa đầu thế kỷ XX.
Sự
lựa chọn chủ nghĩa bình dân của Tự Lực Văn Đoàn, thời ấy, là
một lựa chọn thiết thực, một cách tiếp nối truyền thống dân tộc và bình
dân của Hồ Biểu Chánh. Vì bình dân, nên Tự Lực Văn Đoàn mới thấm
vào nhiều từng lớp độc giả, không chỉ là trí thức tiểu tư sản,
và đã phần nào cải tạo được xã hội. Bình dân ở đây không có
nghĩa là trình độ thấp mà chỉ là một quy ước: Viết giản dị, dễ hiểu về bất cứ
vấn đề gì. Hồ Biểu Chánh đã phát triển nền tiểu thuyết bình dân, với tiếng
Việt bình dân trong Nam, qua tác phẩm Ai làm được,
in năm 1922. Mười năm sau, Khái Hưng với Hồn Bướm Mơ Tiên mở
đầu cho một thứ tiếng Việt bình dân mới, ở ngoài Bắc, vô tình hay cố ý, đã theo
hướng đi của Hồ Biểu Chánh, thoát khỏi ảnh hưởng Hán văn. Khái Hưng cùng với
Nhất Linh khai trương một trường phái văn học: Tự Lực Văn Đoàn.
Nữ quyền trong tiểu thuyết của Khái
Hưng
Ở
Khái Hưng, tâm thức phê phán giai cấp trưởng giả, quan lại, thiêu đốt từ bên
trong.
Sinh
trưởng trong một gia đình quyền quý, con quan tuần phủ Trần Thế Mỹ, rể quan
tổng đốc Lê Văn Định, Khái Hưng biết rõ hơn ai hết nội trường sống của mình,
cho nên các nhân vật của ông có cả chính diện lẫn phản diện, điều mà các tiểu
thuyết gia khác không nằm trong môi trường, thường có lối phê phán một chiều, đến
chỗ cực đoan, phiến diện, ngay cả Nhất Linh cũng không tránh khỏi trong Đoạn
Tuyệt.
Tỉnh
táo, trung dung, uyên thâm nho học, không bị nhiệt tình lôi cuốn, Khái Hưng có
cái nhìn nhân hòa, ít thiên kiến về xã hội trưởng giả Việt Nam đầu thế kỷ XX,
người đọc tìm thấy ở ông những chân dung xác thực và gần gụi với con người. Có
thể nói đến một văn phong trung tính, écriture neutre, nơi Khái Hưng, khác với
văn phong nhiệt tính nơi Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Vũ
Trọng Phụng, v.v... Khái Hưng chỉ tả. Không tố. Khái Hưng thể hiện nữ quyền
trong tâm hồn người đàn bà không như một đòi hỏi mà như một xác định.
Ông trình bày nữ quyền dưới cả hai khía cạnh tốt xấu.
Xã
hội Việt Nam thời Khái Hưng được tiếp máu mẹ trong một hệ thần kinh nho giáo
phong kiến tập tành Tây học. Đàn bà là vai chính trong gia đình. Quyền thế, độc
đoán về tay những bà Án (trong Nửa chừng xuân), bà Ba (trong Thừa
tự), bà Phán (trong Thoát ly). Phiá đối chất, phản kháng lại
cái uy quyền ấy, cũng là phụ nữ, như Mai trong Nửa chừng xuân,
Chuyên và Tính trong Thừa tự, Hồng trong Thoát ly,... Ở
phần tìm tự do, hạnh phúc cá nhân, có Hiền trong Trống mái, Tuyết
trong Đời mưa gió, Lan trong Đẹp. Ở phần tráng sĩ anh
hùng có Nhị Nương trong Tiêu Sơn tráng sĩ... Như thế, nữ quyền hiện
ra một cách toàn diện trên hai mặt, tốt và xấu của nó. Trên bình diện nào, Khái
Hưng cũng trình bày người phụ nữ như một tác nhân, nếu không trực tiếp hành
động thì cũng gián tiếp ảnh hưởng đến môi trường.
Nam
phái trong tác phẩm thường mờ nhạt, phản ánh tính chất bệnh hoạn của chế độ
quan trường, nhu mì trong cái học từ chương, an phận của kẻ bị đô hộ. Họ thường
không có lập trường, xuất hiện như những nạn nhân, đứng trước
cảnh đã rồi, họ là con rối cho mẹ hoặc vợ giật dây. Sự bất lực của
nam phái phải chăng là sự đầu hàng của trí thức trước gót giày thực dân? Là sự
hèn mọn của giai cấp quan trường trưởng giả trước cường quyền và bạo lực?
Ở
giai đoạn chuyển thể giữa Đông và Tây, nội loạn đảng phái, quốc nạn thực dân,
trong gia đình Việt Nam, quyền lực nằm trong tay phụ nữ. Một thứ nữ quyền có
chính diện lẫn phản diện, bởi Khái Hưng luôn luôn đứng ở thế trung dung, không
xu phụ. Ông nhìn thấy cả cái yếu lẫn cái mạnh của người đàn bà, cho nên ngay
những nhân vật "xấu" như bà Án, bà Ba... đều có những khía cạnh rất
người. Sự tàn ác đem lại cho họ những hậu quả khốn nạn. Luật nhân quả chứng tỏ
một Khái Hưng thấm nhuần Phật pháp, nhưng là một phật tử có đầu óc khoa học,
tránh những bi kịch ngẫu nhiên, tiền định. Cái nhìn hai mặt này Khái Hưng không
chỉ dành riêng cho xã hội thượng lưu mà ở cả những thành phần khác. Cho nên
những nhân vật của ông, dù ở cùng một thành phần cũng có thể có nhũng bộ mặt
hoàn toàn khác nhau: tiên phong đạo cốt như sư cụ chùa Long Giáng trong Hồn
bướm mơ tiên, hoặc lý tài hạ tiện như sư cụ làng Giáp trongThừa tự, hoặc
hổ mang, thảo khấu như Phổ Tĩnh thiền sư trong Tiêu Sơn tráng sĩ...
mỗi con người, một quyết định, một hành động, một nhân cách. Những nhân vật của
Khái Hưng dù tu, dù tục, đều có hai mặt tốt xấu và nhận hậu quả hành động của
mình như một nhân quả.
Chế
độ gia đình trị và đa thê biểu hiện nét tương phản của xã hội trong khía cạnh
sâu xa nhất: Những xung đột ghê gớm trong gia đình và sự ác liệt của những xung
đột nằm trong bản chất trả thù truyền kiếp giữa những người đàn bà cầm quyền.
Trước đây họ đã là nạn nhân, bây giờ lên cầm quyền họ trở thành thủ phạm. Được
giáo dục dưới khuôn khổ tứ đức, tam tòng một cách từ chương mà chính họ cũng
không hiểu rõ, chỉ sử dụng như những khẩu hiệu. Sống trong không khí thù nghịch
gia truyền, họ chỉ biết: khi về làm dâu, bị mẹ chồng hành hạ, và chờ đợi thời
cơ, khi đã cướp chính quyền rồi (mẹ chồng chết, hoặc chồng chết), họ bèn trả
thù trên đầu con dâu, con chồng, như một thắng lợi.
Khái
Hưng phơi bày trần trụi bộ mặt nữ quyền khi rơi và tay những bà mẹ lạm dụng
tình mẫu tử như bà Án trong Nửa Chừng Xuân, mẹ ghẻ độc ác như bà
Phán trong Thoát Ly. Sự xác định quyền sinh sát trên đầu những nạn
nhân cùng phái là một thứ nữ quyền mù chữ, độc ác và toàn trị.
Những
xung đột mẹ chồng nàng dâu, dì ghẻ con chồng, buôn con bán cái, còn phát sinh
từ cái lợi. Lợi trong việc cưới gả "môn đăng hộ đối";
cưới rẻ, mua rẻ, tỳ thiếp cho chồng về làm đầy tớ không công. Trong
truyện Thừa tự, Người mẹ ghẻ (tức Bà Ba, Troisème) dứ miếng
mồi thừa tự ra khiến anh em nghi ngờ, thù ghét, rình mò nhau,
xem ai ăn thừa tự? Rồi bà đem cái "vào hậu" ra để dụ sư cụ đê tiện,
sẵn sàng bán đạo để kiếm chác tí "hậu" của các cụ lớn. Tất cả đều do
đàn bà chủ mưu; những hiện tượng này được quan sát và chiếu sáng từ người
"con đẻ của chế độ": Khái Hưng.
Khái
Hưng viết về xã hội trưởng giả của ông không khác gì J.P. Sartre viết về xã hội
trưởng giả của mình.
Tiểu
thuyết của Khái Hưng vẽ nên bộ mặt khả ố và đáng thương của xã hội trưởng giả
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Nửa chừng xuân mở cửa vào những
danh gia, cho biết thủ đoạn gả bán con cái, tiêu diệt hạnh phúc để kiếm danh
giá trong tiến trình môn đăng hộ đối. Gia đình phơi bày nỗi
đắng cay của những người đàn bà như Nga, cả đời chỉ đeo đuổi một mục đích: Làm
sao nên danh bà Huyện. Thoát ly, Thừa tự trình bày những xâu
xé trong cảnh đa thê, dì ghẻ con chồng...
Khái
Hưng trình bày tính chất tha hóa của những xã hội mà cực quyền nằm trong tay
những kẻ dốt nát (ở đây là những bà Tuần, bà Án) nhân danh tôn ti trật tự, nhân
danh tín đức tam tòng, nhưng chính bản thân những người "chỉ đạo" này
cũng chưa một lần tìm hiểu thực chất của đạo lý ấy là gì, hành sự một cách cực
kỳ tàn nhẫn mà trong lòng vẫn yên trí tin rằng đó là bổn phận của họ phải bảo
vệ gia phong, giữ gìn nền nếp.
Đưa
ra những mâu thuẫn cơ bản nhưng Khái Hưng không bi thảm hóa. Ngay trong Nửa
chừng xuân, ở những đoạn gọi là bi thảm nhất như khi Mai bị bà Án đuổi ra
cửa lúc đang có mang, bị Lộc phụ tình vì nghe mẹ, Mai vẫn có phản ứng lạc quan
và có ý thức chống đối.
Đối
lập vói thứ nữ quyền mù quáng của bà Án, là nữ quyền có ý thức của
Mai. Mai thoát khỏi guồng máy đại gia đình nhờ ý thức tự do và tự lập.
Mai chống đối xã hội cũng bằng khả năng của mình, chứng tỏ mình có đủ nghị lực
và bản lĩnh để gánh trách nhiệm của cuộc sống tự do. Và sau này, khi Mai từ
chối những đề nghị chắp nối, trở về với Lộc, cũng vẫn là một lựa chọn minh mẫn,không
hề có tính chất lý tưởng mà chỉ là một quyết định thực tiễn:
Tại sao lại trở về làm lẽ trong cái gia đình quyền quý, hủ lậu ấy mà bỏ nếp
sống tự do của mình?
Trong
xã hội mẫu quyền ấy, loại ký sinh trùng là những bà mối. Các mụ mối của Khái
Hưng, thường tên là bà Hai, có tính đồng cốt, tú bà. Họ là loại trung gian, một
thứ vi khuẩn ăn bám vào hủ tục buôn con bán cái của xã hội. Với những mánh khóe
gian hùng, xui nguyên dục bị, họ thao túng thị trường cưới gả trong những gia
đình quan lại.
Những
người cầm quyền là các bà Án, bà Phán, thường góa hoặc nếu còn chồng thì cũng
là loại đàn ông nhu nhược, đã bị truất quyền. Họ là sản phẩm một chế độ gia
truyền: bị mẹ chồng hành hạ bèn trả đũa lên đầu con dâu. Dốt nát, tham lam, hủ
lậu nhưng có quyền. Sống trong vòng đạo đức, luân lý giả tạo, họ đi từ vị trí
nạn nhân để trở thành thủ phạm, bằng cái vỏ nho giáo mà họ quấn vào người mà
chẳng biết thực chất nó là cái gì.
Cái
vòng luẩn quẩn ấy chỉ có thể mở được nếu người phụ nữ có ý thức về cá nhân và
xã hội: Hồng trong Thoát ly không "thoát ly" được
hoàn cảnh mẹ ghẻ con chồng vì không hiểu và không có khả năng tự lập, Hồng muốn
dựa vào một kẻ khác (lấy chồng) để thoát ly gia đình và khi các dự tính lấy
chồng của Hồng đều bị bà dì ghẻ phá đám, thì Hồng chịu. Phương cách thoát ly
của Hồng chỉ là tạm bợ và ỷ lại, thoát cửa này để vào một cửa khác, bỏ sự lệ
thuộc này để mua lệ thuộc khác. Hồng chưa thật sự tìm đến cối rễ nỗi đau của
mình: nỗi đau lệ thuộc.
Khái
Hưng đã chỉ ra cái tác hại của nữ quyền trong tay những kẻ dốt nát, trong hệ
thống gia đình thủ cựu và đồng thời ông còn đề nghị một quan niệm mới về hôn
nhân.
Hạnh
phúc không nhất thiết phải đi tới hôn nhân.
Từ Hồn bướm mơ tiênđến Nửa chừng xuân, Khái Hưng đã mở
ra những lựa chọn tự do, khác với hôn nhân, mà người ta gọi là union libre, tự
do sống chung, trong Đời mưa gió. Tình yêu và chênh lệch tuổi tác,
trong Đẹp. Rồi trong Hạnh, trong Dọc đường gió
bụi, Khái Hưng đều thấy cái ngắn ngủi, phôi pha của hạnh phúc.
Từ
những đổ vỡ của gia đình trong chế độ cũ, tiểu thuyết của Khái Hưng mở ra những
cái nhìn mới về mối tương quan giữa tình yêu và hạnh phúc, tình yêu và hôn
nhân, thiên nhiên và thành thị, tình yêu và xác thịt. Ở đây Khái Hưng đã đưa
mối hoài nghi mà ông tiếp nhận của Anatole France vào tác phẩm, tính chất phản
diện trong các chân dung nhân vật, trong các vấn đề cốt lõi của con người, đã
sớm đưa ra những xung đột không chỉ giữa cái cũ và cái mới trong buổi giao
thời, mà còn tìm đến những xung đột muôn thuở giữa tu và tục, giữa hạnh phúc và
hôn nhân, giữa nghệ thuật và sáng tác, giữa thiên nhiên và thành thị.
Về
mặt văn phong, Khái Hưng đã đạt tới một tiếng Việt trong sáng, giản dị, gọn
gàng, một humour kín đáo và ý nhị và tính lạc quan yêu đời tỏa ra trong ngôn
ngữ.
Khái
Hưng sử dụng đối thoại một cách tài tình, và cũng chính ở ngôn ngữ của ông, ở
tiếng Việt của ông, do ông tự tạo mà văn học hiện đại bắt đầu trưởng thành
từ Hồn bướm mơ tiên.
Hồn Bướm Mơ Tiên
Hồn
bướm mơ tiên trích từ hai câu thơ cổ
trong Bích Câu Kỳ Ngộ:
Gió
thông đưa kệ tan niềm tục
Hồn bướm mơ tiên lẩn sự đời
Tương
truyền là của vua Lê Thánh Tông làm để xướng họa với một nàng tiên ni
cô ở chùa Ngọc Hồ. Sự lựa chọn của Khái Hưng hàm ý thần tiên, thơ
mộng, nảy ra từ một kỳ tích Việt. Âm vang hồn bướm mơ tiên gợi
không khí Tú Uyên, nhắc đến phường Bích Câu, đến những kỳ ngộ trong lịch sử và
văn hóa Việt.
Cách
mở màn trực tiếp và bát ngát của Hồn Bướm Mơ Tiên dẫn thẳng
vào không gian Bắc Ninh, vào chùa Long Giáng, vào ca dao, vào đời sống dân quê
miền Bắc; mà sau này lối khai khúc ấy xuất hiện trong trường ca Con
Đường Cái Quan. Phạm Duy chịu ảnh hưởng Khái Hưng chăng? Chưa chắc. Có thể
chỉ là ngẫu nhiên bởi những nghệ sĩ đắm mình trong linh hồn dân tộc thường gặp
nhau trong ca dao, huyền sử:
Hỡi
anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại em than đôi lời
Thập
niên ba mươi, ở Bắc người ta vẫn chưa bỏ hẳn lối hành văn theo
kiểu Tố Tâm, "Rồi đây, cánh hồng bay bổng tin nhạn vắng tanh" của
Hoàng Ngọc Phách.
Nhất Linh trong tác phẩm đầu Nho
Phong 1926, vẫn còn viết: "Lê Nương năm ấy tuổi mới trăng
tròn" và Đông Hồ, Tương Phố sụt sùi kẻ khóc vợ, người khóc chồng:
Chiều
thu ảm đạm một mầu
Gió thu hiu hắt thêm sầu lòng anh
Khái
Hưng là người thứ nhất đem nụ cười giải tỏa bầu khí sướt mướt
và trịnh trọng ấy.
Nụ cười là cột trụ độc đáo đầu tiên. Hóm hỉnh, ông tung ra một không gian lẳng lơ quan
họ: gái tán trai. Chưa hết, ông còn thả vào đó một cái nhìn rất trẻ rất vị
thành niên, rất “Di Caprio” trong Titanic, của thế kỷ XIX: Ngọc, cậu công tử
con nhà, lên thăm bác là sư cụ chùa Long Giáng, mới chỉ thoáng "liếc
mắt nhìn trộm"chú tiểu, thấy "hắn đẹp trai thế" chàng
bèn ngờ "hắn là gái" và tán sát ngay:
-
Chú tu ở vùng này thú nhỉ?
-
Thưa ông, đã xa nơi trần tục mà mến cảnh thiền am thì không còn lấy chi làm vui
thú nữa.
Nghe
câu nói có vẻ ra con nhà có học. Ngọc mỉm cười hỏi chú tiểu:
-
Chú biết chữ nho?
-
Vâng, nhờ ơn cụ dạy bảo, tôi cũng võ vẽ đọc được kinh kệ.
-
Thế thì tu sướng lắm, chú ạ. Có cảnh đẹp... lại có sách kinh Phật để mà quên
cuộc đời náo nhiệt, phiền phức. Hay tôi xin phép cụ ở lại chùa tu với chú nhé.
(Hồn Bướm Mơ Tiên, trang 13,
14)
Là
người thấm nhuần nho học nhất trong Tự Lực văn đoàn. Khái Hưng có đủ tài năng
và vốn liếng nho học để làm việc bắc cầu giữa hai nền văn hoá Đông Tây. Khái
Hưng luôn luôn giữ thái độ trung dung, ôn hoà, trong khi Hoàng Đạo dứt khoát,
quyết liệt. Mai trong Nửa chừng xuân khác với Loan trong Đoạn
tuyệt. Cùng thuyền, nhưng khác nhau ở tính cách ứng xử với thời cuộc và xã
hội, vì thế mà Tự Lực có một địa bàn tư tưởng rộng, đi sâu và đi xa vào lòng
người và chiếm lĩnh được tâm hồn của nhiều thế hệ.
Trong Hồn
bướm mơ tiên, để phá không khí trang nghiêm trong xã hội tam giáo, Khái
Hưng không ngại đem những chữ: thú quá, thú nhỉ, sướng lắm... vào
trình cửa Phật. Rồi ông nhúng văn phong trong sáng của mình trong chất thiền,
nhuộm vào lịch sử văn hóa dân tộc xuyên các đời Nhân Tông, Thái Tổ, qua Văn
Khôi công chúa đến Cao Huyền hòa thượng ngày xưa, để tạo nên chất đạo cốt của
sư cụ Long Giáng thời nay. Khái Hưng bắt Ngọc phải chấm cái Tây của mình vào
mực Nho, dàn dựng sự đuổi bắt ú tim giữa Lan và Ngọc như cuộc gặp gỡ giao hưởng
đông tây, tình tứ và hóm hỉnh trong không khí cao mặc và u tịch của Mâu Ni.
Khái
Hưng còn đưa ra một technique rất mới, rất “Columbo”: mật bí cho biết
trước chú tiểu là gái nhưng lại giữ nhẹm bí mật đến màn cuối
cùng. Người đọc bị lôi cuốn theo cái bí mật mật bí ấy, lẽo đẽo theo dõi hành
tung Lan và Ngọc như coi phim trinh thám. Đến những đoạn ngoạn mục như Lan sợ
rắn, ngã ngửa ra ôm chặt lấy Ngọc, hay đoạn Vân thị màu tán
tỉnh chú tiểu Lan trong màn "chạy đàn" bất hủ, thì đến Như Lai cũng
phải phì cười: bởi trong Lan đã có hồn Văn Khôi, có vong Thị Kính; trong Ngọc
đã có hóm hỉnh Khái Hưng; trong sư cụ Long Giáng đã có cốt cách của Thái Tổ
ngồi thiền.
Khái
Hưng đưa ra một "mặt trận" văn hóa mới: hòa hợp những rường mối cũ đã
ăn sâu vào tâm hồn người Việt với tư tưởng trẻ trung và Tây học của chính mình.
Tính
chất đấu tranh xã hội, bênh vực nữ quyền nơi Khái Hưng, vì thế, khác với phong
cách của Nhất Linh và Hoàng Đạo và các tác giả cùng thời, bởi nó mang
chất trung dung của Khổng Tử và từ bi của Mâu
Ni. Như Hồ Biểu Chánh, Khái Hưng giữ lại những cái hay của Khổng Phật hoà trong
tinh thần tự do chính trực của Tây Phương, tạo ra con đường sống của chính
mình. Những nhân vật của Khái Hưng được tạo dựng trong một tâm hồn cao
thượng dung hoà hai tư tưởng và hai lối sống Đông Tây như thế.
************************
Ngọc
là nhân vật nam đầu tiên của Khái Hưng, sau này trở nên mẫu người thanh niên
trưởng giả mất định hướng dưới thời Pháp thuộc, như Lộc trong Nửa Chừng
Xuân, Chương trong Đời Mưa Gió, Hạnh trong Hạnh,
Trình và Khoa trong Thừa Tự, Nam trong Đẹp, Cảnh
trong Băn Khoăn... hiền hoà, thụ động, tây học nhưng sợ nhập cuộc,
từ chối những lựa chọn cuối cùng.
Ở
Lan xuất hiện người phụ nữ mới, tuy chịu ảnh hưởng tam giáo, nhưng độc lập,
trách nhiệm và biết mình muốn gì. Lan xác định lựa chọn đi tu của mình là dứt
khoát, không thay đổi. Lan chứng minh cho sự tự quyết của người đàn bà. Lan mở
đường cho Mai trong Nửa Chừng Xuân, Tuyết trong Đời Mưa Gió,
Nhị Nương và Quỳnh Như trong Tiêu Sơn Tráng Sĩ... Những nhân vật nữ
của Khái Hưng mạnh bạo hơn phái nam, họ nhận thức được vấn đề trách
nhiệm, và họ thể hiện tinh thần cao thượng của tác giả.
Với Hồn
Bướm Mơ Tiên, Khái Hưng đã mở khai một xã hội mới, xã hội mà người đàn bà
có chỗ đứng xứng đáng, xã hội mà quyền suy nghĩ và quyết định phụ thuộc mỗi cá
nhân trách nhiệm. Những người phụ nữ của Khái Hưng là những cá nhân độc lập và
trách nhiệm hơn nam giới. Vũ Ngọc Phan cho biết độc giả của Khái Hưng thời ấy,
phần lớn là đàn bà. Điều đó dễ hiểu vì Khái Hưng là nhà văn bênh vực nữ quyền
đầu tiên một cách sâu sắc và tế nhị. Khái Hưng đem tư tưởng nữ quyền vào tiểu
thuyết Việt Nam, không như một kêu gọi, không như một chống đối bên ngoài, mà
thể hiện trong nội tâm của người phụ nữ.
Ngọc
luôn luôn ở tư thế hoài nghi. "Hắn là trai hay là gái?",
"Có tài thánh thì cũng không dấu nổi ta."
Tính
chất trinh thám trong Hồn Bướm Mơ Tiên là hình thức bình dân
nhất để quyến rũ người đọc, nhưng nó cũng lại dẫn người đọc khám phá ra những
ngõ ngách khác của tâm hồn.
Không
gian giữa Lan và Ngọc là một không gian trinh thám tâm lý. Sự khám
phá tình yêu ở đây xuyên qua các giai đoạn ngôn ngữ và cử chỉ: Lan chỉ
cần yếu một ly là Ngọc sấn tới. Sự chiếm hữu đối
tượng nơi Ngọc xẩy ra tiệm tiến trong một cảnh quan oái oăm, ngộ nghĩnh, dập
dình, tức cười, dưới cửa từ bi. Trần Thanh Mại đã không nhầm khi ông đoán trước
sẽ là một kiệt tác. Bởi hơn bẩy mươi năm sau, chúng ta đọc đi đọc lại, những
xúc động vẩn còn y nguyên như lúc Phan Khôi đọc, khi tác phẩm mới ra đời.
Bởi
vì Hồn Bướm Mơ Tiên không thừa một chữ, một chi tiết nhỏ. Bởi
tiếng Việt của Khái Hưng trong tác phẩm đã đạt tới đỉnh cao giản dị mà Trang Tử
nhắc đến và đòi hỏi ở một tác phẩm văn học. Khái Hưng dùng hình ảnh trực tiếp
mà không qua một hình thức ẩn dụ nào. Và đó cũng là cái cách biệt sâu xa giữa
Khái Hưng và các nhà văn Việt Nam khác. Ở điểm ấy Khái Hưng cũng lại gần Hồ
Biểu Chánh: bình dân và trực tiếp.
Dưới
dạng bình dân dễ đọc dễ hiểu ấy, còn có một lớp lang thứ nhì: qua ngôn ngữ và
cử chỉ của Lan và Ngọc, toát ra những câu hỏi khó khăn và sâu xa về sự tranh
chấp giữa tu và tục, giữa đạo và đời,
giữa tình yêu và tôn giáo.
Tại
sao người tu hành lại không có quyền có một đời sống thể xác? Tại sao các tín
đồ phải "bán mình" cho đạo lý? Mối tương quan đối đẳng giữa hôn nhân
và hạnh phúc? Hạnh phúc có thật hay không? Hay hạnh phúc chỉ là điều không
tưởng?
***********************
Sự
lựa chọn của Lan ngả về đạo. Chỉ có Lan là lựa chọn. Ngọc theo Lan.
Những
câu nói cải lương của Ngọc "Tôi không lấy ai, chỉ sống trong cái
thế giới mộng ảo của ái tình lý tưởng", hoặc "ta yêu
nhau, ta yêu nhau trong linh hồn, trong lý tưởng" ... không biểu
hiện tính chất lý tưởng của tác phẩm, mà chỉ phản ảnh sự bối
rối, yếu đuối, vụng về, không làm chủ tình thế của Ngọc. Cũng như Lộc, như Phạm
Thái, như Chương, như Cảnh... Ngọc mang tính "từ chương", nhiều lời,
lãng mạn và đầy "nữ tính". Nói nhiều chỉ thiệt. Phật không nói. Lan
không nói. Cho nên Lan không cải lương. Sự lựa chọn của Lan trầm lặng và cô
đơn. Lan ở tại chỗ. Bất khứ bất lai. Lan cũng như Phật. Không đi. Không đến.
Lan biết đi mãi rồi cũng về chỗ cũ.
Vì
Lan đã thấy, đã ngộ rằng hôn nhân giết chết tình yêu. Hay Lan
cảm thấy tình yêu cũng giống như một tác phẩm nghệ thuật, chỉ có giá trị trên
đường tìm. Một khi đã đạt, tình yêu cũng giống như tác phẩm hoàn tất. Tình yêu
tiêu thụ rồi (l'amour consommé) không còn giá trị của trái cấm thuở ban đầu.
Tình yêu cũng như nghệ thuật: Tới đích là chìm. Và Lan, và Mai đã chọn sự xa
cách, không vì lý tưởng mà vì thực tiễn.
Luận
kỹ thì thế, nhưng cũng không chắc lắm: Lan im lặng, nhưng Lan có nghĩ trước
chăng? Lan có thực tiễn chăng? Hay sự dừng lại của Lan chỉ là sự dừng lại rất
tự nhiên của một tình yêu platonique mà bao nhiêu ni cô, tu sĩ, và bao nhiêu
tâm hồn khác, không tu, không trăm năm, vẫn quyết trọn đời ràng buộc? Tình yêu
platonique có từ thuở nào? Hay Lan dừng lại vì sự cao thượng của tâm hồn? Lan
dừng lại vì biết rằng tình yêu bất khứ bất lai. Như Phật. Không đi. Không đến.
Tình yêu tồn tại.
Trống Mái
Eric
Tabarly, người thủy thủ xuyên đại dương số một của Pháp trong thế kỷ XX khi bị
biển cuốn đi, để lại chúc ngôn: "Biển không dữ dội, biển cũng
không chỉ là những bãi cát để nghỉ hè, phơi nắng mà biển còn là nguồn sống cho
con người". Khái Hưng viết trong Trống Mái: "Biển
là của con nhà nghề, của những người đánh cá, bắt ngao, nuôi sống chứ không
phải của bọn khuê các, công tử thừa tiền, thừa thì giờ ra đó chơi bời thỏa
thích." Một người suốt đời sống chết với sóng nước và một nhà văn
chỉ là khách vãng lai của biển, đều nhìn biển tương tự như nhau. Phải chăng
Tabarly đã sống đời Khái Hưng trong tiền kiếp, hay mỗi nhà văn thường có mấy
kiếp trong một con người? Rilke viết: "Muốn làm một câu thơ phải
xem nhiều thành phố, gặp bao nhiêu người, phải biết rõ đời sống sinh vật, phải
cảm thấy chim bay, hoa nở như thế nào". Rilke muốn nói đến kinh
nghiệm sáng tạo. Và nếu muốn có một kinh nghiệm sáng tạo như
thế, thì nhà thơ phải già hơn người thường đến vài mươi kiếp.
Vọi,
nhân vật chính trong Trống Mái của Khái Hưng là một
hồn thơ giàu kinh nghiệm biển. Trống Mái tích lũy những
nghiệm sinh, nghiệm sống, những nhìn, ngắm, cảm... của nhiều đời Khái Hưng
trong một. Trống Mái là phần cửa biển của
Khái Hưng, mở từ Sầm Sơn, bối cảnh một tình yêu trái mùa giữa Hercule Vọi có
tâm hồn Ulysse, với cô Hiền Sirène tân thời, vô tâm, vô tình mà tàn nhẫn. Một
cô Hiền có mãnh lực quyến rũ của người cá nhưng lại không mang cánh cá.
Hiền,
ngư tiên Sầm Sơn 1936, tự do, muốn thử một quan niệm sống mới, muốn đạt
tới thế quyền phụ nữ trong một xã hội phụ quyền từ A đến Z.
Ngay từ 1936, Hiền đã dám nghĩ đến cuộc sống độc thân, Hiền bảo mẹ: "Con
chả muốn lấy chồng, con chỉ theo chủ nghĩa độc thân." Đi trước
Simone de Beauvoir mười ba năm, Hiền cho rằng sự bình đẳng nam nữ phải dựa trên
tương quan đồng đẳng: Cái gì người ta làm được thì mình cũng làm được. Hiền
muốn gạch chữ yếutrong phái yếu. Hiền đẹp, con nhà
giàu, có một thân hình cường tráng. Hiền bơi giỏi, đánh đàn hay, Hiền trí thức.
Nàng có đủ hành trang cần thiết để đánh bại lũ cậu ấm rởm, theo nàng như ruồi
nhặng. Hiền nghĩ: "Muốn bình đẳng phải đồng đẳng. Mà trước hết cần
phải đồng đẳng về thân thể tráng kiện."
Gặp
Vọi thuyền chài, đẹp như tượng cổ Hy Lạp. Hiền nghĩ đến một thứ tình yêu không
vụ lợi mà «vụ đẹp», «vụ át-lét», «vụ thân thể cường tráng». Tình yêu không phân
giai cấp giầu nghèo, không phân biệt trí thức và vô học. Hiền muốn một cuộc đời
mở cửa ra thiên nhiên, núi, nước, để phản kháng lại quan niệm trưởng giả đô thị
của xã hội quan liêu «vụ bằng cấp» mà nàng đang sống. Ở Hiền, đã manh nha đầu
óc phi đẳng cấp, đã khát vọng một đời sống tự do, độc lập và bình đẳng, và một
thế giới... cộng đồng.
Nhưng
khi chinh phục được Vọi rồi, Hiền bỏ lửng. Nàng sợ. Không dám đi tới. Sự cách
biệt giai cấp và tri thức không dễ dàng phủi sạch trong tâm hồn cô gái trưởng
giả. Hiền chỉ là một thiên thần, ra biển muốn bay, nhưng lỡ quên cánh ở
nhà. Trống Mái như một Deuxième Sexe đang
viết dở, như một bài thơ đứt đoạn.
Trống
Mái hướng về phía biển, trời, như
một khát vọng thăng thiên về vùng khí quyển tự do. Như một tấm gương trong suốt
để soi mình. Trống Mái có cái tự tôn trong sáng về khoảng
không gian thiêng liêng, thân ái, không gian không có chiều, vì có quá nhiều
chiều của vùng khí quyển tự do. Biển mở cửa cho Hiền về phía Tự Do. Phía ấy,
xuất hiện Vọi, sừng sững đẹp như một thiên thần Hy Lạp. Vọi là sứ giả của biển.
Vọi giới thiệu thế giới đá nước, thế giới thuyền chài, đánh khơi, đánh lõng,
đánh rút... thế giới cá: Cá ó, cá sũ, cá vược, cá râu, cá bạc, cá thu, cá nhám,
cá quịt, cá mập, cá nhà táng... Vọi dẫn Hiền vào những ngõ ngách của núi Đương
Trèo, những khe Thờ, hòn Buồn, núi Gầu Cao, núi Con Voi, núi Đầu Câu, núi Mê,
hòn Đá Lớn...
Vọi
dẫn Hiền vào đời sống thiên nhiên, bí mật của biển, núi, mây, nước với những
sinh vật và thực vật vô cùng giầu có. Những thế giới, những cuộc sống song song
với thế giới con người, nhưng con người thành thị không hề
biết, không ngờ tới. Con người thành thị như Hiền ra biển để
tắm, họ lợi dụng mặt trời để phơi nắng, khoe da; có mấy khi họ để tâm đến một
cảnh biển sớm: "Mặt trời vừa mọc, ẩn sau đám mây tím giải ngang
trên làn nước đủ mầu, từ mầu lam xẫm, lam nhạt ngoài xe cho đến các mầu hồng,
màu vàng ở gần bờ.
Trên
nền trời sắc da cam chói lọi những vạch đỏ thắm xòe ra như bộ nan quạt làm bằng
ngọc lự." (trang 49). Con người thành
thị, mấy khi có thì giờ để ngắm một đêm biển:
"Tiếng
sóng rào rào không ngớt làm cho lời mình nói có ý nghĩa thầm kín, những ngọn
phi lao nghiêng theo chiều gió như khúc khích cười cố lắng tai nghe" (trang 122).
Và
như thế, Vọi dẫn Hiền, con người thành thị, vào một thế giới
khác, một môi trường khác. Nhưng đồng thời, cái đẹp thần lực của Vọi, nẩy trong
Hiền những mặc cảm khác. Biến con người thành thị của Hiền thành con người
thiên nhiên, vui với một trò chơi trẻ con, trò đấu xe cỏ kim:
"Hiền
bẻ hai cành lá cỏ cho chạy thi, rồi cũng như mọi lần, vừa cười vừa chạy theo
sau. Lúc gió thổi mạnh, cỏ lăn thực mau, loáng thoáng ánh trăng xiên ngang,
trông y như hệt con cua chạy dưới bóng trăng đêm hôm trước, rồi cũng như con
cua, bị nước biển tràn lên liếm lấy, lôi đi." (trang 95)
Hiền
biết mình thắng bọn con trai tầm thường thành thị. Nhưng với Vọi, Hiền thua,
Hiền bị quyến rũ. Vọi thị thực tính chất áp đảo của «sắc đẹp nam quyền». Hiền
bị chinh phục bởi chính cái khía cạnh áp đảo mà Hiền vẫn từngtranh đấu.
Càng bị áp đảo, Hiền càng muốn chiếm hữu Vọi. Sự chiếm hữu trở thành cứu cánh
để lật lại thế cờ, để chứng minh sức mạnh của nữ quyền trên Vọi. Hiền chưa thật
sự biết yêu, Hiền mới chỉ trên đường tìm tình yêu, nhưng chẳng may Hiền
bị nữ quyền cám dỗ. Hiền bị cái nữ quyền trưởng giả đầy tham
vọng và tàn ác chiếm hữu.
Vọi
không biết chữ, nhưng Vọi có cả kho kinh nghiệm sống. Kiến thức của Vọi về
biển, về cá, về nghề đánh cá, về nước, về mây, về gió, về thiên nhiên và môi
trường, về lòng nhân ái, tự trọng, và đến cả ý thức về tình yêu, sự sống, sự
chết... cách tự kết đời mình của Vọi... tất cả nằm trong một huyền thoại bí mật,
thoát ngoài sách vở, mà Hiền, kẻ ngoại đạo ngơ ngác, chỉ đứng chiêm ngưỡng, mà
không xâm nhập được.
Vọi mới đáng là sirène, là ngư thủy. Vọi có khả năng
gọi viễn du, Vọi mở cửa cho Hiền ra biển, dẫn Hiền vào những hải trình xa lạ mà
người thành thị chưa bao giờ đặt chân tới. Vọi không làm thơ nhưng vẫn
là nhà thơ. Bởi nhà thơ là những người dụ giỏi. Nhà thơ cám dỗ chúng ta vào
hành trình tư tưởng của họ, vào những giấc mơ hình ảnh và âm thanh. Vọi có khả
năng cám dỗ của nhà thơ, dụ con người vào hải phận của mình. Vọi là kẻ sáng
tác, bởi vì chàng có khả năng làm cho con người nhìn khác đi những
phong cảnh hàng ngày.
Tác
phẩm trình bày một hình thức "đấu tranh giai cấp" rất cao, rất lạ,
trong mối tình Trương Chi Mỵ Nương phản diện quá khứ. Vọi là Trương Chi có tâm
hồn cao thượng và Hiền là Mỵ Nương tân thời có khả năng chiếm đoạt, đặt nữ
quyền trên tình yêu.
Vọi
là người vô sản, cùng đinh, có cái đẹp thể xác thiên thần, một tâm hồn trinh
ròng, chưa hề bị sách vở đầu độc.
Vọi
biết sống, biết yêu và biết chết bằng trực cảm, không hề bị ảnh hưởng ngoại
giới. Vọi ở trên mọi chủ nghĩa, nhất là thứ chủ nghĩa người ta thường đắp cho
người vô sản, mà những người vô sản đích thực như Vọi không bao giờ hiểu. Vọi
hiểu những cái khác, ví dụ khi cất được cá ó, cá sư hay cá vược... là Vọi biết
rằng họ sắp ra nghỉ mát rồi. Khi cất được cá râu, cá bẹ, cá sâu, cá
thu là Vọi biếttrời sắp mát, biển sắp trong, cá sắp sẵn... Chỉ giản dị
thế thôi. Chính cái kinh nghiệm sống giản dị ấy, kinh nghiệm nhìn mây biết thời
tiết, đón gió biết bụng biển... mới là kinh nghiệm vô sản, nguyên chất vô sản,
bởi không thông qua chữ nghiã, nó tự nhiên, nó giúp cho con người tự tin, tự
tồn và tự tại, từ thời Lão Tử.
Vọi
không cần tranh đấu, bởi Vọi ở trên mọi giai cấp. Vọi là nhà thơ. Vọi cho nhiều
hơn nhận. Vọi có ma lực thúc đẩy con người chuyển biến, lên đường. Cái chết của
Vọi là tất yếu, là cách hóa thân của nghệ thuật. Cái chết của Vọi vừa bi đát
vừa siêu thoát. Vọi là nhân vật nam duy nhất của Khái Hưng mang tâm hồn
cao thượng của tác giả. Với Trống Mái, Khái Hưng đã trình
bày hình thức đấu tranh giai cấp kỳ lạ và thanh cao nhất trong tác phẩm văn
học: tạo ra một nhân vật vô sản quyến rũ, đầy nghệ thuật, và táo bạo chưa từng
có trong văn học Việt Nam.
Một
người đến Sầm Sơn trước và sau khi đọc Trống Mái, sẽ phải khác đi.
Sẽ nhìn Sầm Sơn khác đi. Bởi quyến vọng biển, núi, mây, nước trong tác phẩm có
khả năng thúc đẩy, chuyển biến, có khả năng thay đổi con người, mời gọi
viễn du, invitation au voyage, nói theo Bachelard. Và nói theo ngôn ngữ hàng
ngày, Trống Mái có khả năng sáng tạo lại môi sinh, tìm về một
thế giới nguyên thủy, ở đó có sự thăng hoa của con người đến bầu trời tự do
sáng tạo.
Nghệ
thuật và gió bụi
Có
thể chia tiểu thuyết của Khái Hưng làm ba hướng: tiểu thuyết tư tưởng với Hồn
bướm mơ tiên, Trống mái, Đẹp, Đời mưa gió, Băn khoăn; tiểu thuyết hiện thực
xã hội với Nửa chừng xuân, Thừa tự, Thoát ly, Gia đình; và tiểu
thuyết lịch sử với Tiêu sơn tráng sĩ. Riêng phần tiểu thuyết
tư tưởng có thể chia làm hai:Hồn bướm mơ tiên và Trống mái,
hướng về tình yêu. Đời mưa gió hướng về gió bụi và Đẹp về
nghệ thuật. Băn khoăn đưa ra con người mất định
hướng, đặt vần đề phi lý của cuộc sống. Hạnh và Cái Ve là
hai truyện vừa, đi sâu vào nội tâm con người, chuyên chở những hoài nghi về hạnh
phúc.
Hạnh là một đoản thiên về nỗi bất hạnh của hạnh phúc. Người
con trai mang tên Hạnh, với ý nghĩa Hạnh như hạnh phúc mà cha mẹ đặt, phản ánh
mặt trái của hạnh phúc. Hạnh triền miên sống trong cô đơn từ lúc nhỏ, là đứa
con bị ghét bỏ trong gia đình, trở thành một "sản phẩm" không có
"contact" và bị người ta quên, người ta không chú ý đến. Hạnh đương
nhiên trở nên một thực thể không có nghĩa lý gì. Tình trạng không tiếp cận với
ngoại thế của Hạnh, là một tình trạng bệnh lý: Vì bị đối xử tàn nhẫn tư lúc còn
thơ, Hạnh khép mình trong lớp vỏ kín, cắt đứt mạch thông cảm giữa mình với
người. Hạnh tự giam trong cô đơn, rồi từ nỗi cô đơn đó thoát ra một đời sống
nội tâm phức tạp và đau đớn. Hạnh không sống thực, nhưng sống bằng tưởng tượng,
một thứ tưởng tượng méo mó, bệnh hoạn, trong đó tất cả những va chạm với người
khác đều được chàng đoán nhận, phân tích theo một chủ quan riêng, không liên hệ
gì với thực tế sống, và đưa Hạnh đến những cay đắng âm thầm, những đợi chờ vô
vọng.
Hạnh
là một trường hợp trục trặc, không giao cảm, chứng tỏ tính hoài nghi cao độ của
Khái Hưng về những cái được gọi là cảm thông và hạnh phúc.
Chủ đề Nghệ thuật và Gió bụi không chỉ có
trong truyện dài mà còn trải rộng trong truyện ngắn, cho nên có thể coi đây là
một trong những tư tưởng nòng cốt của Khái Hưng, phần tâm sự sâu lắng, đi ra
ngoài quỹ đạo phê phán xã hội, rời bỏ con đường tranh đấu của Tự Lực Văn Đoàn,
và đây mới chính là bản ngã của Khái Hưng, một nghệ sĩ đam mê cái đẹp
và cuộc sống giang hồ.
Khái
Hưng đã đi trước thời đại khi ông xây dựng nhân vật Tuyết, trong Đời
mưa gió (tác phẩm viết chung với Nhất Linh, nhưng có phần Khái Hưng
nhiều hơn, vì Nhất Linh ít khi đi đến sự phóng khoáng toàn diện như thế), như
một biểu tượng của tự do và đề cập đến một thứ hạnh phúc ngoài hôn nhân, union
libre. Khái Hưng đề cao sự sống chung không ràng buộc cưới hỏi, bằng
những giây phút hạnh phúc ngắn ngủi của đam mê. Đời mưa gió là
một trong những tác phẩm đi xa nhất về sự giải phóng con người.
Tuyết,
người gái giang hồ trong Đời mưa gió, hoàn toàn tự do khi tìm đến
Chương và hoàn toàn tự do ra đi, trong hủy hoại thân thể, trong cái chết. Những
người đàn bà tự do, phóng đãng như Tuyết, thường quyến rũ lạ thường. Ở Tuyết có
những giây phút hạnh phúc, những ám ảnh đoạn tuyệt, những day rứt phân lìa giữa
tiếng gọi tự do và lối sống khuôn phép gia giáo kín cổng cao tường.
Tính
chất tương phản và đồng đẳng trong các tiêu đề hạnh phúc, hôn nhân, tình yêu,
nghệ thuật nói lên phong cách trung dung của Khái Hưng, nói lên bản chất nửa
chừng xuân trong các tác phẩm của Khái Hưng: không dứt khoát, ôn hòa,
tất cả đều tương đối. Ở Khái Hưng không có đoạn tuyệt.
Đợi
chờ không chỉ là tên một truyện
ngắn mà còn là một chủ đề tư tưởng: Tính chất hoài nghi trong đợi chờ mở
ra mọi ngả. (Chú thích: Bản Đợi chờ in năm 1939 mà Vũ Ngọc
Phan nói đến trong Nhà Văn Hiện Đại có 16 truyện, nay không
thấy nữa. Bản Đợi chờ do Sống Mới in lại tại Hoa Kỳ, chỉ có 8
truyện).
Truyện
ngắn của Khái Hưng, khởi đi từ không gian mơ mộng mà Đợi chờ là
một bài tùy bút, mở cửa vào sông Thương, vào những đồi cam Bố hạ và kết thúc
bằng câu văn lãng mạn: “cùng chàng mong ngóng người xưa, cỏ cây mây
nước cũng trầm ngâm mong ngóng xuân về”. Vì xe nhà hết xăng, phải dừng lại
tìm chỗ bán xăng, người con gái đẹp sang trọng và bà mẹ tình cờ ghé trại cam
của Linh. Giây phút gặp gỡ gây dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn chàng. Khi về,
người đẹp hứa năm sau sẽ trở lại. Linh sống trong đợi chờ người
ấy, chờ đợi phút giây hạnh phúc có thể xẩy ra lần thứ hai trong đời. Niềm tưởng
vọng phút hạnh ngộ trở thành một nguyện ước, một khẩn cầu. Tuần hoàn năm này
qua năm khác, cứ mỗi mùa cam chín, Linh đợi chờ trông ngóng. Và đợi chờ trở
thành lẽ sống của Linh.
Sự hoài
niệm ở tuỳ bút đợi chờ còn rất lãng mạn, nhưng qua
những truyện ngắn sau, dần dần trở thành một không gian suy tưởng. Đợi
chờ trở thành vô vọng, tính chất hoài nghi cuộc sống tăng dần để đi
đến những đớn đau bi đát, trong truyện Dưới ánh trăng.
Dưới
ánh trăng viết chung với Trần Tiêu. Cái
Tẹo, cô gái quê không thoát khỏi sức quyến rũ của người anh Hà thành, Tẹo đã
thất thân trong khung cảnh lãng mạn của những đêm trăng sáng dân làng rọc thuốc
và thái thuốc. Tẹo đợi chờ nhưng người anh họ trai lơ trong
bản Seranata, chậm ngày trở lại và người con gái hoang thai trầm mình.
Chủ
đề đợi chờ của Khái Hưng luôn dẫn đến vô vọng, vì đối tượng
đợi chờ thường không đến. Chính ở cái không đến đó mà đợi chờ mở tung tưởng
tượng để tâm hồn viễn du vào những vùng bất định.
Hãy
nghe Khái Hưng tả cảnh tiếng tiêu trên thuyền đi vào chùa Hương:
“Tiếng
bổng cất cao tận đỉnh trời xanh. Tiếng trầm rơi trên làn sóng tan trong nhịp
chèo. Âm nhạc ngừng, nhưng tiếng ngân còn kéo dài trong êm lặng của ban đêm,
lưu luyến với luồng ngấn trắng chuyển động chạy sau thuyền.
Cả
một đêm trong sáng chung đúc lại chỉ còn có cảm giác thần tiên ấy: cái đẹp như
đã kết tinh trong tư tưởng, và không bao giờ nhạt phai trong trí nhớ. Ngoài ra
mọi vật, mọi ý, mọi sự, đều mờ dần cho đến khi biến đi không còn vết tích.
Trong
giấc ngủ, tiếng tiêu vẫn réo rắt... Cảnh sáng trăng vẫn huyền ảo... Một tia ánh
thái dương lọt qua khe mui thuyền. Tôi tung chăn ngồi dậy. Tiếng ồn ào chung
quanh.
Bến
Đục!
Từ
đó vào tới chùa ngoài, cái suối nước phẳng lặng đưa chiếc tam bản mỏng mảnh của
chúng tôi, cùng với hàng chục chiếc tam bản đầy chật khách lễ chùa, lượn quanh
những quả núi nhỏ và xinh như những non bộ bầy trong bể cạn.
Cảnh
ấy, tôi mới được trông thấy lần đầu nhưng tôi không lạ mắt: Hình như tôi đã gặp
nó ở một xứ quen thuộc nào đó, hình như trải một đời tiền sinh, tôi đã sống
trong rặng núi kia, bên sườn non kia. Thì ra trong tâm não tôi, trong trí tưởng
tượng của tôi, những cảnh Liễu trai đã từ lâu biến thành cảnh thực” (trích Chùa Hương).
Truyện Chùa
Hương bắt đầu trên một đêm thuyền trăng như thế và cứ dần dần liêu
trai thêm với sự xuất hiện của nhà sư nửa tu, nửa tục, với những bến Đục, bến
Trong, bể sâu, bể cạn. Khái Hưng giao lưu thật giả trong một giấc mơ bí mật, mà
sư lão, sư tổ có thể vừa chân tu, vừa thảo khấu. Truyện Biến
đổiphác họa nét dâu biển của người con gái nhà lành, quá chân vào bước giang
hồ, không đi ngược lại được nữa. Bến đò năm xưa cũng lại một
đợi chờ kỷ niệm, đợi chờ hóa thân thành một hình ảnh liêu trai khác, một
fantasme hoang loạn trong tâm hồn. Truyện ngắn Tương tri (trong
tập Hạnh) trình bày quan niệm sống thoát tục của cụ Tú đánh cờ. Nhập nhằng giữa
tiên và tục, ván cờ phản ánh bản chất và sinh mệnh con người. Khái Hưng chơi cờ
người với chữ: Đời người phải chăng là những ván cờ tiên mà được thua chỉ là hư
ảo?
Dọc
đường gió bụi chính là sự phù du của hạnh
phúc và tính chất gió bụi của cuộc đời. Sự đối chất giữa tự do và hạnh phúc
xuất hiện ở Đào Mơ. Mơ không thể nào dừng lại sống hạnh phúc với một người,
nàng luôn luôn bị quyến rũ bởi tiếng gọi tự do của đời nghệ sĩ .
Đào
Mơ cũng như Tuyết trong Đời mưa gió, là hai nhân vật đẹp nhất của
Khái Hưng, hai người con gái đã lấy phóng túng làm chủ đích cho cuộc sống giang
hồ giữa một xã hội đầy ràng buộc, một xã hội không có hạnh phúc.
Và
khi hạnh phúc xuất hiện, nó hiện lên trong tiếng dương cầm trác tuyệt của người
phụ nữ câm mà Khái Hưng đã mô tả với những xúc động tế nhị. Đối với Khái
Hưng "hạnh phúc chỉ ở trong sự yên lặng".
Dọc
đường gió bụi là những mẩu hạnh phúc thoáng
qua trong đời, may mắn cho ai bắt được và biết tận hưởng những giây phút thần
tiên ấy trên con đường "lầy lội gió mưa” của mình. Hạnh phúc có thể chỉ là
một "mái tranh tí tách nhỏ giọt theo tiếng mo buộc vào thân cây
cau, một dòng nước manh mảnh chẩy lanh tanh vào một cái vại sành". Hạnh
phúc đôi khi chỉ là một nụ cười của cô hàng nước, có cái má lúm đồng tiền duyên
dáng.
Điếu
thuốc lá là một trong những truyện ngắn
hay nhất của Khái Hưng, cho thấy nét đa dạng trong ngòi bút của ông
và tính chất mập mờ của con người. Thằng nhỏ mười tuổi muốn thử xem ông thầy
bói mù có thật sự đoán biết tất cả những gì xẩy ra chung quanh mình hay không,
nó bèn thử giấu điếu thuốc lá dang hút dở của ông thầy bói. Đầu đuôi chỉ có
vậy. Nhưng Khái Hưng đã tạo ra một kiệt tác. Sự bí mật mà thằng bé muốn khám
phá, là đôi mắt mù, chúng ta biết rõ từ đầu, y hệt như chuyện chú tiểu Lan là
con gái: bí mật Columbo. Nhưng truyện vẫn lôi cuốn không thể cưỡng lại được,
bởi các sự kiện kinh hoàng nối tiếp nhau, từ lớn đến nhỏ: việc ông thầy bói
trúng khiến quan Tổng đốc thoát khỏi nạn “làm ma không đầu” đến khi ông nhót
trúng quân cờ, càng làm tăng ma lực hấp dẫn của ông. Chân dung người thầy bói,
được trình bày qua cái nhìn ghê gớm của đôi mắt mù, với các
động tác chớp nhoáng và trúng đích của một người không nhìn thấy. Cuộc đấu trí
giữa đứa trẻ lên mười và người thầy bói kỳ tài đầy kinh nghiệm. Sự bí mật trong
ý nghĩ và thành tích của ông Cửu Thầy. Tất cả đều từ bình thường biến sang kỳ
lạ, khiến cho người đọc có cảm tưởng chính mình là kẻ bị bịt mắt dẫn vào một
không gian rùng rợn của núi Văn Dú hay một hang động bí mật nào mà sáng tối đối
chất và cộng tác để tạo nên một sức ép, một sự căng thẳng chưa từng có.
Khái
Hưng để lại ba tập kịch, Tục lụy (1937), Đồng bệnh (1942)
và Khúc tiêu ai oán (1946) là tác phẩm cuối cùng viết xong
ngày 10/12/1946.
Đồng
bệnh đả phá những cái nực cười
trong xã hội trưởng giả, gả bán con cái theo nhu cầu quan chức và tiền
bạc. Tục lụy và Khúc tiêu ai oán mở về huyền
thoại và thi ca.
Ở
khuynh hướng lịch sử Nhất tiếu và Khúc tiêu ai oán diễn
tả nhân sinh quan và sử quan của Khái Hưng. Kịch Nhất tiếu phỏng
theo hồi thứ hai củaĐông Chu liệt quốc, truyện U Vương đốt lửa Ly Sơn
mua vui cho Bao Tự. Khúc tiêu ai oán viết lại chuyện Ngũ Tử Tư
thời Đông Chu, theo hồi thứ 71, 72 đến 76 trong truyện Đông Chu liệt
quốc. Ngũ Sa, thái sư nước Sở có hai con là Ngũ Thượng và Ngũ Tử Tư tức Ngũ
Viên. Sở Bình Vương hoang dâm vô độ, Ngũ Sa ngăn cản, nhà vua liền bắt giam ông
và gài bẫy cho hai con trai ông về triều để giết luôn cả ba. Nhưng chỉ có Ngũ
Thượng chịu về chết với cha. Ngũ Tử Tư trốn thoát sang Ngô, phò Công Tử Quang
lên ngôi vua, rồi Tử Tư dẫn quân Ngô về dày xéo nước Sở để báo thù nhà. Chí lớn
của Tử Tư được Tư Mã Thiên hết sức tán thưởng.
Trong Khúc
tiêu ai oán Khái Hưng đề nghị những lời bàn khác với Tư Mã Thiên, một
của Trịnh Nữ, một của Đông Cao Công, một của người con gái giặt sa, một của Sở
Bình Vương, một của Ngũ Thượng và một của Ngũ Sa. Sáu lời bình khác
nhau của năm người chết và một người sống về hành động của Ngũ Tử Tư: Một
cái nhìn đa diện về một sự kiện lịch sử liên hệ đến chân dung một người anh
hùng mà sau này chúng ta thấy lại trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp dưới hình
thức khác hẳn.
Kịch Khúc
tiêu ai oán ra đời cuối năm 46 trong hoàn cảnh nhiễu nhương, tranh
chấp toàn diện một mất một còn giữa Việt Minh và Quốc Dân Đảng. Phải chăng Khái
Hưng muốn đưa ra một thông điệp chính trị về anh hùng, về việc báo thù, báo
oán, về việc mượn quân nước ngoài về thanh toán nhau trên quê hương của hai
đảng Quốc Dân và Cộng Sản ? Rồi Nhất Linh sẽ làm trong Dòng
sông Thanh Thủy. Có phải sau giai đoạn công phá kịch liệt Việt Minh
trên các báo Việt Nam và Chính Nghĩa, Khái Hưng trở lại tin tưởng vào sự đoàn
kết dân tộc. Có phải vì muốn loại hận thù ra khỏi tranh chấp chính trị mà Khái
Hưng viết Khúc tiêu ai oán và cũng chính trong giai đoạn này
Khái Hưng gặp định mệnh của mình.
Tiêu sơn tráng sĩ
Tại
sao Khái Hưng viết Tiêu sơn tráng sĩ? Một câu hỏi cần thiết.
Khái
Hưng viết Tiêu sơn tráng sĩ để kiện toàn một đời người, một
đời văn, một cuộc đấu tranh giành độc lập, thất bại. Nếu không có Tiêu
sơn tráng sĩ, chúng ta sẽ chỉ biết có Khái Hưng nhà văn. Nhờ Tiêu
sơn tráng sĩ mà chúng ta biết được con người toàn diện của Khái Hưng
và hiểu đuợc sự thất bại của Tự Lực văn đoàn trong những hoạt động chính trị
của đảng Hưng Việt, Đại Việt dân chính, Việt Nam quốc dân đảng.
Tiêu
sơn tráng sĩ là cuốn tiểu thuyết lịch sử
duy nhất, lạc loài trong tủ sách Khái Hưng gồm những chuyên đề xã hội, nghệ
thuật, tình yêu... Tiêu sơn tráng sĩ như một mảnh vườn riêng
mà nhà văn giấu giấc mộng phiêu lưu của mình trong tình thế nhiễu nhương của
đất nước.
Tiêu
sơn tráng sĩ in năm 1940, có thể viết
khoảng 39-40. 1939 là mốc quan trọng: Tự Lực văn đoàn bước vào chính trị.
Nguyễn Tường Tam lập đảng Hưng Việt, sau đổi thành Đại Việt Dân Chính. 1940,
Khái Hưng và Hoàng Đạo sang Tàu tìm hậu thuẫn của các đảng phái cách mệnh khác.
Tình
hình Việt nam thập niên 1930-1940, thời Nguyễn mạt có những nét tương tự như
thập niên cuối thế kỷ XVIII, thời Lê tàn, Tây Sơn mạt, Nguyễn hưng, trong sự
tranh chấp bá quyền giữa các đảng phái: mỗi đảng hùng cứ một phương với những
chính nghiã khác nhau. Đảng Tiêu Sơn chủ trương phù Lê, diệt Tây Sơn, đền ơn
vua, nợ nước, một thứ chính nghiã trong số những chính nghiã có giá trị hàng đầu
của thế kỷ XVIII. Đại Việt Dân Chính, chủ trương chống Pháp, giành độc lập dân
chủ cho đất nước, một trong những chính nghiã hàng đầu của thế kỷ XX. Đảng Tiêu
sơn phải chăng là tiền thân của Việt Nam Quốc Dân Đảng?
Thành
phần nhóm Tiêu Sơn có Trần Quang Ngọc, Nhị Nương, Phạm Thái, Lê Báo... các
tráng sĩ cậu ấm, con nhà, xoay trở trong một cuộc nước, vận cờ không lối thoát.
Họ có những nét lãng mạn đáng yêu, họ đã tiên tri, tiên nghiệm cho vận thế của
dòng họ Nguyễn Tường và Tự Lực Văn Đoàn trong những ngày sóng gió: đảng trưởng
bôn ba hải ngoại, đảng viên, gồm những sinh viên, nhà văn trong Tự Lực, lui
quân, lui quân dần mãi đến biên thùy rồi phải lưu vong sang Trung Quốc. Nguyễn
Tường Bách trong Việt Nam những ngày lịch sử đã ghi lại những
đoản khúc, những nhịp vận hành của các «tráng sĩ Tiêu Sơn» Việt quốc, với những
mưu đồ nghiệp lớn chưa thành đã nếm mùi thất bại.
Trong Tiêu
sơn tráng sĩ, Khái Hưng đã viết rõ quan niệm chính trị của mình, về chủ
trương chống Pháp: “Ta chỉ nên trông cậy vào sức ta, chứ đừng tưởng
mong chờ ai hết” (Lời Trịnh Đán, con thứ Trịnh Bồng, trong buổi đại
hội đảng Tiêu Sơn, trang 147); về quan niệm đảng: “Nếu không có lòng
yêu nước thương dân, chỉ nghĩ đến quyền lợi của mình mình, của một đảng mình,
thì dẫu có lên làm vua chúa nữa cũng chẳng ra gì, huống chi nhiều khi còn phạm
thêm cái tội rước voi về dầy mồ” (vẫn lời Trịnh Đán, trang 146). Khái
Hưng gián tiếp cảnh cáo những ai chủ trương cầu cứu nước ngoài, cả quốc gia lẫn
cộng sản.
Phạm
Thái biết trước “mệnh yểu” của đảng mình, nhưng vẫn quả quyết:“Người anh
hùng cứu quốc khi nào lại chịu phục tòng số mệnh? Chỉ biết một việc là hành
động, hành động cho đến giờ cuối cùng.” (Lời Phạm Thái, trang 174).
Trần
Quang Ngọc phải là Nhất Linh. Khái Hưng phải là Phạm Thái. Khái Hưng chính là
Phạm Thái. Nói những lời hào hùng thì dễ, nhưng khi bắt tay vào việc, mới nhận
ra “việc lớn” không dễ dầu gì. Ngay “việc nhỏ” là đánh tháo cho bà hoàng phi Lê
Thị Kim, vợ vua Chiêu Thống, bị quan quân Cảnh Thịnh bắt, đã khó. Nói chi đến
việc lật đổ triều đình Quang Toản, mặc dù nội bộ Tây Sơn đã mục rữa. Bùi Đắc
Tuyên chuyên quyền, Võ Văn Dũng diệt cha con Bùi Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở. Trần
Quang Diệu đem quân chống lại Võ Văn Dũng.
Thừa
dịp Tây Sơn nội loạn, Phạm Thái bàn với Trương Đăng Thụ, hiệp trấn Lạng Sơn,
cựu thần nhà Lê, mượn cớ dẹp loạn, đem quân qua Kinh Bắc hợp cùng đảng Tiêu Sơn
kéo về triều. Mưu cơ bại lộ. Trương Đăng Thụ bị đầu độc chết. Đảng Tiêu Sơn
thanh thế mỗi ngày một yếu, sau tan rã.
Đường
lối của đảng Tiêu Sơn, chủ chốt ở Trần Quang Ngọc, đảng trưởng, nhưng hành động
của đảng do Nhị Nương đảm trách. Nhị Nương chính là Hoàng Đạo. Cô gái Kinh Bắc,
người yêu của đảng trưởng, đã gác gánh tình sang một bên để đóng vai tráng sĩ,
trả thù cha, đền ơn vua. Tất cả những khó khăn của đảng Tiêu Sơn trên bước
đường cùng đều do Nhị Nương giải quyết. Khái Hưng một lần nữa, vẫn tin vào khả
năng xoay chuyển thời thế của người phụ nữ, và dường như chưa bao giờ nhà văn
đoạn tuyệt với niềm tin nữ quyền trong tác phẩm của ông.
Còn
Phạm Thái? Chàng là nhà thơ, là một gã si tình, Phạm Thái là tráng sĩ của thi
ca và tình yêu như Khái Hưng. Khái Hưng làm chính trị vì tình bạn với Nhất
Linh, hầu như tất cả bạn bè thân thuộc khi viết về Khái Hưng đều biết chuyện
đó. Tình bạn giữa Khái Hưng và Nhất Linh không giải thích được, như có sự hoà
tan giữa hai tâm hồn: khi họ viết chung một quyển sách thì không biết đoạn nào
của Khái Hưng đoạn nào của Nhất Linh. Khái Hưng không có con, Nhất Linh «cho»
bạn một đứa con trai. Họ lại có «chung» với nhau một đứa con, như thể cùng tiếp
chung một dòng máu. Tất cả công việc của đảng mà Nhất Linh giao phó, Khái Hưng
đã làm, làm đến phút chót, như lời Phạm Thái, khi mọi người đi hết, vẫn ở lại,
làm một mình.
Cuối
cùng cuộc “cách mạng” còn lại gì? Còn lại mối tình Phạm Thái - Trương Quỳnh Như
với những tuyệt tác thi ca của Phạm Thái. Và sự gặp gỡ giữa hai thiên tài Nhất
Linh - Khái Hưng để tạo ra Tự Lực văn đoàn và thời kỳ vàng son của văn chương
Việt nam trong thế kỷ XX.
Tiêu
sơn tráng sĩ xác định giá trị vĩnh cửu của
văn chương trước giá trị nhất thời của chính trị: giả sử Phạm Thái có thành
công với Trần Quang Ngọc và Nhị Nương trong cuộc khởi nghiã Tiêu Sơn thì tên
tuổi cùng lắm chỉ được vài dòng trong lịch sử.
Và
Nhất Linh cũng xác định như thế trong Dòng sông Thanh Thủy.
Họ
lại gặp nhau một lần nữa trong tư tưởng.
Tiêu
sơn tráng sĩ là cuốn tiểu thuyết lịch sử
hay nhất của văn học Việt Nam từ Nam triều công nghiệp diễn chí của
Nguyễn Khoa Chiêm (1659-1736),Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia
văn phái đến ngày nay. Tiểu thuyết lịch sử luôn luôn lôi cuốn, làm cho chúng ta
thích thú, bởi các biến cố dồn dập, các tác động vũ bão, các nhân vật từ trong
chính sử bước ra với những cử chỉ, ngôn ngữ của một thời khác, được
sinh động lại dưới mắt ta. Sự thành công đầu tiên của một tiểu thuyết lịch sử
là gây lại được không khí lịch sử của thời mà truyện xẩy ra.
Trong những tác phẩm kinh điển như Đông Chu Liệt Quốc, Tam Quốc Chí, của Tàu,
hoặc Hoàng Lê Nhất Thống Chí của ta, các tác giả xây dựng không khíấy
bằng ngôn ngữ và hành động của nhân vật. Đối thoại và hành động rất cần thiết
nhưng chưa đủ để tạo dựng lại một triều đại, còn phải nhờ vào tình tiết éo le,
và nhất là phải biết cách ép thời gian lại, tức là dồn rất nhiều biến cố chặt
ních trong một trang sách. Nói tóm lại tiểu thuyết lịch sử cổ điển dựa trên ba
nguyên tắc: tình tiết ly kỳ, đối thoại đốp chát và hành động xuất thần.
Trong Tiêu
sơn tráng sĩ, Khái Hưng cũng chỉ dùng những nguyên tắc ấy: ông dựng không
khí tiểu thuyết bằng ngôn ngữ Việt cuối thế kỷ XVIII, bằng những nhân vật tiêu
biểu của thời đại, nhưng trái với kỹ thuật của người xưa, ông không ép thời
gian lại mà kéo thời gian giãn ra. Ông kéo thời gian giãn ra,
để cho nhân vật sống những giây phút lãng mạn, với những cô đơn, những nghiệm
suy, với tình yêu, với nghệ thuật. Ông cũng không dùng tình tiết ly kỳ để lôi
cuốn, mà mê hoặc độc giả bằng tính trinh thám, bằng không khí âm u của núi
rừng, bằng phong cảnh thần tiên của vùng Từ Sơn Kinh Bắc. Trong Tiêu
sơn tráng sĩ, văn thơ Phạm Thái gắn liền với đồi núi trữ tình từ trung du
đến Lạng Sơn. Trong hành tung của các tráng sĩ Tiêu sơn có bí mật Thế Lữ vàng
và máu.Dưới tấm áo nâu sồng có rùng rợn của các ác tăng, có vương giả của
hoàng phi, có xuất quỷ nhập thần của Nhị Nương tráng sĩ. Dưới gia trang bình dị
của Kiến Xuyên Hầu, có tiết liệt của Long Cơ, có đam mê của Quỳnh Như đến chết.
Tác phẩm hội tụ nhiều khía cạnh của Khái Hưng trong một, thể hiện tâm
hồn cao thượng và tình yêu nghệ thuật của Khái Hưng, chứng tỏ địa bàn
sâu rộng của ngòi bút Khái Hưng về lịch sử, văn hoá, địa lý, đất nước và con
người.
Khái
Hưng luôn luôn đi trước định mệnh, đã nhìn thấy hành trình của đảng Hưng Việt,
từ khi vừa thành lập, đã đoán được những thất bại chua cay, đã nhìn thấy sự bất
lực của chữ nghiã trong một đảng ái quốc bạo động. Khái Hưng thấy mình trong
Phạm Thái.
Tác
phẩm vượt khỏi tầm tiểu thuyết lịch sử, để đến với văn chương và tư tưởng. Dựng
lại khung cảnh và không khí đất Bắc dưới thời Lê mạt với những hạng người đủ
mặt từ thảo khấu đến anh hùng, từ văn nhân tài tử đến lớp cùng đinh, từ người
hiền ở ẩn đến trí thức hành động, từ tráng sĩ đội lốt nhà sư đến bọn hổ mang
nâu sồng hành thích... một quần thể nhân dân đủ mọi hạng người, đều có mặt, đều
sống cái đạo riêng của mình, đều phô bày tư cách và tâm hồn dưới ngòi bút Khái
Hưng, tài tình và điêu luyện trong nghệ thuật mô tả lẫn nghệ thuật tâm lý, hai
yếu tố chính của tiểu thuyết lúc bấy giờ. Bí mật trinh thám liên kết với hành
tung xuất quỷ nhập thần, can trường nhưng vô hiệu của đám thanh niên tráng sĩ,
thấm nhuần văn hoá dân tộc, qua bàn tay phù thủy chữ nghiã của Khái Hưng, trở
thành một bức họa hoành tráng về sự thất bại của bạo lực cách mạng, về tâm
hồn cao thượng của văn chương.
Thụy Khuê
Paris tháng
11/2008- tháng 2/2009